Phan Bội Châu - nhà yêu nước lớn đầu thế kỷ 20
Phan Bội Châu (1867 - 1940) Phan Bội Châu (tên có là Phan Văn San), hiệu Hải Thụ, sau lấy hiệu là Sào Nam (và nhiều bút danh khác) sinh ngày 26-12-1867, quê ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, Nghệ Tĩnh).
Ông là nhà yêu n¬ước lớn đầu thế kỷ 20 của Việt Nam và là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng. Ông từng khởi xướng, thành lập, lãnh đạo nhiều phong trào và tổ chức chính trị, như Hội Duy Tân (1904), phong trào Đông Du (1905) với chủ trương dùng mọi biện pháp khôi phục độc lập dân tộc. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải đ¬ưa về Việt Nam định thủ tiêu. Trước sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, thực dân Pháp phải giam lỏng ông ở Huế cho tới ngày ông mất (1940). Các tác phẩm Hải ngoại huyết thư, Việt Nam vong quốc sử, Trùng Quang tâm sử... của ông có ảnh hưởng lớn tới nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước
Lúc nhỏ, ông nổi tiếng thông minh. Sáu tuổi đã thuộc hết Tam tự kinh, bảy tuổi đã hiểu kinh truyện, tám tuổi đã làm thông thạo loại văn cử tử. Mười ba tuổi, đi thi ở huyện đỗ đầu. Mười sáu tuổi, đỗ đầu xứ, nên cũng gọi là đầu xứ San.
Năm lên chín tuổi, ông đã có ý thức hưởng ứng phong trào của Trần Tấn, Đặng Như Mai, chống bọn thực dân. Mười bảy tuổi, được tin phong trào khởi nghĩa nổi lên ở Bắc kỳ, ông đã thảo bài hịch Bình Tây Thu Bắc. Năm 19 tuổi hưởng ứng chiếu Cần Vương của Hàm Nghi, ông tổ chức một đội thư sinh quân gồm 60 người lên đường ứng nghĩa, nhưng chưa kịp hành động thì địch đã về càn quét ở làng. Công việc không thành nhưng chí hướng cứu nước của ông đã rõ.
Tiếp đó, mười năm Phan Bội Châu làm ông đồ dạy học. Năm 1900, ông đỗ thủ khoa trường Nghệ và chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng. Phan lập ra Hội Duy Tân (1904), chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ, chủ trương bạo động và nhờ ngoại viện để khôi phục nền độc lập. Đầu năm 1905, ông sang Nhật rồi quay về dấy lên một phong trào Đông Du vào năm 1905-1908. Ông viết nhiều tác phẩm tuyên truyền cách mạng như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, v.v...
Lãnh đạo phong trào Đông Du, Phan Bội Châu đã tổ chức Công hiệu hội, tập hợp 200 lưu học sinh Việt Nam sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự. Những năm cuối cùng trên đất Nhật, ông lập ra các hội có tính chất "đoàn kết quốc tê", như hội Điến, Quế, - Việt liên minh (liên minh giữa những người Vân Nam, Quảng Tây với Việt Nam) và hội Đông á đồng minh (gồm một số ngời Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, v.v...) để giúp nhau chống lại bọn đế quốc.
Khoảng tháng 3-1909, tổ chức Đông Du bị giải tán và Phan Bội Châu bị chính phủ Nhật trục xuất. Trở về ẩn náu tạm thời trên đất Trung Quốc ít lâu, Phan Bội Châu sang Xiêm hoạt động. Hơn một năm sau, khi cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, Phan lại trở về Trung Quốc và thành lập Việt Nam quang phục hội mà tôn chỉ duy nhất là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước "Cộng hòa dân quốc Việt Nam".
Sau những hoạt động yêu nước, Phan bị thực dân Pháp nhờ bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam ngày 24-12-1913.
Năm 1917, khi Phan Bội Châu ra tù, thì chiến tranh thế giới lần thứ nhất sắp kết thúc, ¬ảnh hưởng Cách Mạng Tháng M¬ười Nga và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sôi nổi khắp thế giới, đã tác động lớn đến Phan Bội Châu. Cụ đã viết báo ca ngợi lãnh tụ Lênin vĩ đại, ca ngợi Nhà N¬ước Công Nông của Liên Xô, v.v...