Chữ viết cũng là một thành tố của văn hóa. Chữ viết xuất hiện ở ĐNA khá sớm, khoảng đầu công nguyên. Ban đầu, hệ thống chữ viết của các quốc gia ĐNA được sử dụng dựa vào các chữ viết cổ của Ấn Độ(chữ Phạn, Sanskrit, chữ Pali) và Trung Quốc (chữ Hán). Tuy nhiên, dù sao chữ Sanskrit hay chữ Pali, chữ Hán không chỉ là văn tự mà còn là ngoại ngữ, ngôn ngữ bác học cần cho việc viết văn bia hay bày tỏ ý nguyện với thần thánh, chỉ hợp với một số ít người trong xã hội. Do đó, các học giả đã cải biên mẫu tự Sanskrit, mẫu tự Hán xây dựng một hệ thống chữ viết để ghi ngôn ngữ bản địa của mình. Từ thế kỉ IV đến thế kỉ VII, lần lượt ra đời các chữ viết cổ riêng của các dân tộc ĐNA như: chữ Chăm cổ, Khmer cổ, Môn cổ, Pyu cổ, Mã Lai cổ, Miến cổ, Nôm của Việt Nam….đến thế kỉ XIII các hình thức cổ nhất của chữ Thái cũng ra đời. Chữ Ấn Độ cổ hay chữ Hán cổ vẫn được dùng song hành đến khoảng thế kỉ X trở đi mới được thay thế dần bằng chữ cổ bản địa
Ngày nay, các quốc gia ở ĐNA đều sử dụng các dạng chữ Viết theo mẫu tự Latinh.
1. CHỮ HÁN
1.1 Chữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ Giáp Cốt (Giáp Cốt Tự ), chữ viết xuất hiện vào đời nhà Ân vào khoảng thời 1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnh xương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được.
- Chữ Giáp Cốt tiếp tục được phát triển qua các thời:
+ Nhà Chu (1021-256 TCN) có chữ Kim (Kim Văn ), là chữ viết trên các chuông bằng đồng và kim loại
+ Chiến Quốc (403-221 TCN) và thời nhà Tần (221-206 TCN) có chữ Triện (Đại Triện và Tiểu Triện) và có chữ Lệ (Lệ Thư )
+ Nhà Hán (Tiền Hán 206 TCN-8 CN, Hậu Hán 25-220) có chữ Khải (Khải Thư )
- Chữ Khải còn có thể được chia thành chữ Hành (Hành Thư ) và chữ Thảo (Thảo Thư ). Chữ Khải là loại chữ được dùng bút lông chấm mực tàu viết trên giấy và rất gần với hình dáng chữ Hán ngày nay vẫn còn được dùng ở Nhật, Đài Loan hay Hồng Kông. Chữ Thảo là loại chữ được viết bằng bút lông có lược bớt hoặc ghép một số nét lại. Sự phát triển chữ Hán trải qua các thời kỳ có thể được minh họa bằng một số chữ sau:
Chữ Giáp Cốt → Chữ Kim → Chữ Triện → Chữ Lệ → Chữ Khải → Chữ Thư
Ngày nay chữ Hán ở Trung Quốc đã có xu thế được giản lược đơn giản hơn và ở Trung Quốc còn sử dụng hai loại chữ: chữ Chính thể và chữ Giản thể
1.2 Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam còn lưu giữ được số hiện vật như đỉnh cổ có khắc chữ tượng hình (chữ Hán cổ). Điều này là một phần chứng minh được rằng chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam khá sớm và thực sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong người Việt kể từ những thế kỷ đầu Công nguyên trở đi. Đến thế ký VII - XI chữ Hán và tiếng Hán được sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng Hán được sử dụng như một phương tiện giao tiếp, giao lưu kinh tế thương mại với Trung Quốc. Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc Trung Quốc trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, vì vậy hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng chữ Hán có ảnh hưởng to lớn như thế nào đối với nền văn hóa của nước Việt Nam xưa. Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thoát khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam.
- Trước khi chữ Hán du nhập vào Việt Nam, một số học giả cho rằng người Việt có chữ viết kiểu nút còn gọi là "chữ khoa đẩu". Theo các nhà nghiên cứu thì không phải người Việt dùng kiểu thắt nút để trị quốc như các sách sử của Trung Quốc mà người Việt có văn tự riêng của mình; bằng chứng là các văn tự được tìm thấy ở các văn bia miền núi phía Bắc có chữ viết ngoằn nghèo như lửa (nên còn gọi là Hỏa tự). Tiếng Việt cổ đại cũng là một ngôn ngữ thuộc họ Mường-Khmer của hệ Nam Á, khác hẳn với hệ ngôn ngữ của tiếng Hán.
+ Theo giáo sư Hà Văn Tấn, ngay từ thời vua Hùng đã có một hệ thống chữ Việt cổ. Chữ này được nghi lại trên lưỡi cày Đông Sơn và trên những chiếc qua đồng ở Thanh Hóa và ở vùng Hồ Nam. Đây là loại vhữ vừa ghi hình, vừa biểu ý, bởi vì, ngoài hình mặt trời, còn có các hình vẽ biểu hiện các khái niệm trừu tượng, ví dụ, khái niệm về sự sôi, nấu chín ( qua hình vẽ một chiếc nồi bốc hơi ).
2. CHỮ NÔM
Dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự ngoại lai không thể nào đáp ứng, thậm chí bất lực trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của bản thân người Việt. Chính vì vậy chữ Nôm đã ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.
- Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế kỷ thứ VI).
+ Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn "Thiền Tông Bản Hạnh". Đến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.
Chữ Hán và chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa...
3. CHỮ QUỐC NGỮ
- Việc chế tác chữ Quốc ngữ Việt Nam là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người Châu Âu, trong đó nổi bật lên vai trò của Francesco de Pina, Gaspar d'Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre De Rhodes. Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu). Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latin (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày. Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp. Còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ 17.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt - Bồ - La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt - Bồ - La (1772), tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống mà chúng ta đang dùng hiện nay.
- Tiếng Việt hiện nay có 6 thanh điệu ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Tiếng Việt tương đối khó phát âm cho người nước ngoài. Ngày nay do sử dụng ký tự Latin (a, b, c,...) của chữ Quốc ngữ, việc giao tiếp ngôn ngữ trên Internet trở nên dễ dàng hơn
4. CHỮ PALI- SANSKRIT
4.1 Nói về chữ viết ở Đông Nam Á, ta không thể bỏ qua vai trò rất to lớn của chữ Pali- Sanskrit, còn được gọi là chữ Devanagari ( chữ thánh thần ), ở khu vực này.
Ở Ấn Độ, trên cơ sở cải biên mẫu tự Devanagari để ghi chép ngôn ngữ Ấn- Âu, chữ Sanskrit ( chữ Phạn ) đã ra đời từ thế kỉ thứ VII. Tuy nhiên, sau đó , ở các vùng Bắc Ấn Độ, người ta đã cải biên và sáng tạo ra một hệ thống mẫu tự mới với tên gọi Pali để ghi lại tiếng nói của cư dân ở đây. So với chữ Sanskrit, chữ Pali đơn giản hơn. Chữ Pali được dùng để viết kinh phật. Sanskrit là ngôn ngữ văn học, phổ biến trong giới trí thức và học giả. Pali là ngôn ngữ phổ thông mà đông đảo quần chúng thường dùng. Vì muốn tư tưởng của mình thấm sâu vào quần chúng nhân dân nên Đức Phật đã sử dụng chữ Pali để truyền bá. Chữ Pali không phải là một hệ thống hoàn toàn mới và khác với Sanskrit, do đó người ta thường dùng cả cụm từ Pali- Sanskrit để nói về hệ thống chữ viết này.
4.2 Nói chung chữ Pali- Sanskrit vào các nước Đông Nam Á từ đầu công nguyên. Trên tấm bia Đông Yên Châu được khắc vào thế kỉ IV- V, người ta cũng thấy xuất hiện một loại chữ Chăm cổ mà hình nét giống như chữ Devanagari. Dĩ nhiên, chữ Pali- Sanskrit vào Chăm đã được cải biến đi nhiều để phù hợp với ngôn ngữ Chăm. Những thế kỉ sau đó, người Chăm đã dùng chữ viết của mình ( tức là chữ Pali- Sanskrit đã được cải biến ) để ghi chép kinh thánh và trao đổi thư từ.
- Chữ viết Chăm là hệ thống chữ viết để thể hiện tiếng Chăm, một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo. Cộng đồng người nói tiếng Chăm phân bố chủ yếu ở Việt Nam và Campuchia với 230.000 người.
Chữ Chăm là một trong những hệ thống chữ viết đầu tiên bắt nguồn từ chữ viết Brahmi ở Nam Ấn Độ khoảng năm 200. Giống như tất cả các chữ viết thuộc nhóm ngôn ngữ Brahmi, chữ Chăm ghi lại âm tiết (có chữ cái chỉ nguyên âm, nhưng các chữ cái ghi lại phụ âm có nguyên âm đi kèm luôn trong đó). Chữ này viết hàng ngang, từ trái sang phải như chữ Latinh.
Cộng đồng người Chăm ngày nay có hai nhóm cách biệt nhau, người Tây Chăm ở Campuchia và người Đông Chăm ở Việt Nam. Chữ viết Chăm trong mỗi cộng đồng khác biệt nhau khá xa. Người Tây Chăm phần lớn theo đạo Hồi và ngày nay ưu chuộng dùng chữ Ả Rập. Người Đông Chăm ở Việt Nam chủ yếu theo đạo Hindu và vẫn sử dụng chữ viết riêng của họ. Trong thời gian Đông Dương là thuộc địa của Pháp, cả hai nhóm người Chăm đều bị buộc phải chuyển sang dùng ký tự Latin.
- Hệ thống chữ viết Campuchia, hay còn gọi là chữ Khơ-me, có nguồn gốc từ những dạng chữ khác nhau của chữ Brabmi cổ, thuộc vùng Nam Ấn Độ. Tuy nhiên, nếu theo truyền thuyết thì chữ viết Ấn Độ được đưa vào đây sớm hơn nhiều, khoảng thế kỉ thứ II. Hệ thống chữ viết Campuchia bao gồm 33 phụ âm, 22 nguyên âm độc lập, 12 nguyên âm phụ và một số các ký hiệu dấu khác. Hầu hêt các phụ âm đều có dạng giản lược khi chúng là thành phần thứ hai trong cụm phụ âm. Dạng giản lược này được gọi là phụ âm phụ. Còn nguyên âm có thể được viết trước, sau, trên hoặc dưới phụ âm. Tấm bia cổ nhất ghi lại chữ Khmer cổ có niên đại năm 611.
- Chữ Pali- Sanskrit cũng được đưa vào các quốc gia hải đảo khá sớm. Những bi kí cổ tìm được ở Indonesia xác nhận rằng chữ viết ở khu vực này xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ IV. Bảng chữ cái cổ nhất ở Jawa là thứ chữ cái theo dạng vùng nam Ấn Độ vốn có tên gọi Brahmi ( chữ của Brahma, do Brahma tạo ra ). Chữ Jawa, chữ Madura đều bắt nguồn từ chữ Brahmi.
- Với chữ Thái cổ, các nhà khoa học thường coi năm 1283 là cái mốc đánh dấu sự ra đời của nó. Sở dĩ như vậy là vì họ đã căn cứ vào một tấm bia được lập dưới thời vua Thái Ram Khăm Hẻng, trong đó có ghi : “Ngày xưa chữ Thái này không có. Năm 1205 Xaka ( 1283 ), tức năm con dê, vua Ram Khăm Hẻng có mời một ông thầy đến. Ông này đã sáng tạo ra chữ Thái này. Đó là người mà ngày nay chúng ta phải biết ơn”. Thực ra, “chữ Thái này”, theo các nhà nghiên cứu, là do những người Shan từ Miến Điện mang đến. Song công lao của Ram Khăm Hẻng là ở chỗ đã đưa chữ Thái của một bộ phận người Shan ( xuống định cư ở Thái Lan ) lên thành một thứ chữ chính thức của quốc gia Thái Lan. Như vậy, xét về gốc gác, chữ Thái cũng bắt nguồn từ chữ viết nam Ấn Độ như chữ Khmer, chữ Madura cổ. Nhân đây cũng cần nói thêm rằng chữ của người Shan ở bắc Miến Điện chính là Pegu cổ xuất hiện vào đầu công nguyên, trên cơ sở của chữ cổ Ấn Độ.
- Chữ Miến Điện cổ xuất hiện vào khoảng thế kỉ XI. Nó bắt nguồn từ chữ Môn cổ vốn có từ thế kỉ thứ IV và cững có nguồn gốc từ chữ cổ Ấn Độ.
- So với các quốc gia khác, nước Lào ( với tên gọi Langsang ) xuất hiện muộn hơn. Trong mối tương quan như thế, chữ Lào xuất hiện muộn hơn các thứ chữ Đông Nam Á khác cũng là điều dễ hiểu. Theo các nhà khoa học, chữ Lào có từ năm 1353 với dấu vết còn lại là lời huấn thị của Pha Nguồn. Chữ Lào được xây dựng trên cơ sở của chữ Thái cổ, tuy nhiên, so với chữ Thái, nó đơn giản hơn nhiều.
-> Như vậy là, nói chung, các quốc gia Đông Nam Á đều xây dựng chữ viết riêng cho dân tộc mình từ một trong hai nguồn: từ chữ Pali- Sanskrit ( như các thứ chữ Khmer, Chăm, Thái, Lào, Miến Điện, Jawa, Madura cổ ) và từ chữ Hán ( như chữ Nôm của Việt Nam ). Các chữ viết dân tộc này, nói chung được sử dụng cho tới hết thời kì trung cổ.
- Từ thế kỉ XIII, các quốc gia hải đảo Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của đạo Hồi. Từ đó văn hóa Arập thâm nhập mạnh mẽ vào khu vực này cùng với đạo Hồi. Chừ viết Arập chuyển tải nội dung Hồi giáo đã được mang vào Malaysia, Indonesia, và có ảnh hưởng đáng kể ở đây vào các thế kỉ XIV- XV.
- Với sự can thiệp của phương Tây váo Đông Nam Á, chữ viết của nột số quốc gia Đông Nam Á đã được chuyển đổi theo hướng Latinh hóa. Các loại chữ viết này đều là chữ ghi âm, dùng con chữ Latinh nên dễ đọc, dễ nhớ. Chữ viết Malaysia, Brunei, Indonesia, Philippines và Việt Nam hiện nay đều thuộc dạng này. Trong số các chữ viết Latinh hóa này, chữ Quốc Ngữ của Việt Nam ra đời sớm nhất – khoảng đầu thế kỉ XVII, các chữ Latinh khác ở hải đảo xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ XIX- XX