Tiêu đề: Nhật Bản | |
| | | | | | NHẬT BẢN 1. Kinh tế, khoa học - kỹ thuật
Sau chiến tranh, là nước chiến bại, Nhật Bản bị mất hết thuộc địa và bản thân nước Nhật bị quân đội Mĩ chiếm đóng theo chế độ quân quản. Kinh tế Nhật bị chiến tranh tàn phá nặng nề: 34% máy móc, 25% công trình, 80% tàu biển… bị hưu hại, sản xuất công nghiệp năm 1946 chỉ bằng ¼ so với mức trước chiến tranh. Do thị trường bị thu hẹp, nguyên liệu và lương thực trong nước thiếu thốn cho nên những năm đầu sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng khó khăn nghiêm trọng. Nhật Bản phải dựa vào các “viện trợ” kinh tế của Mĩ dưới hình thức vay nợ để có thể phục hồi kinh tế ( trong những năm 1945 – 1950), nhận viện trợ và đầu tư của Mĩ và nước ngoài (khoảng gần 14 tỉ đôla).
Từ năm 1945 đến năm 1950, kinh tế Nhật Bản phát triển chậm chạp và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Mĩ. Nhưng từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (tháng 6 – 1950), công nghiệp Nhật Bản phát triển mạnh mẽ hẳn lên nhờ những đơn đặt hàng quân sự của Mĩ. Bước sang những năm 60, khi Mĩ gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nền kinh tế Nhật Bản lại có thêm cơ hội để đạt được bước phát triển “thần kì”, đuổi kịp rồi vượt các nước Tây Âu, vươn lên đứng hàng thứ hai (sau Mĩ) trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Về tổng sản phẩm quốc dân năm 1950, Nhật Bản chỉ mới đạt 20 tỉ đôla, bằng 1/3 của Anh (59 tỉ đôla), ½ của Pháp (39 tỉ đôla), 1/17 của Mĩ (349,5 tỉ đôla), nhưng đến năm 1968, đã vượt qua các nước Tây Âu - đứng hàng thứ hai sau Mĩ với 183 tỉ đôla (Mĩ là 830 tỉ đôla). Năm 1973, Nhật Bản đạt 402 tỉ đôla, như thế trong khoảng hơn 20 năm (1950 – 1973), tổng sản phẩm quốc dân tăng 20 lần và đến năm 1989 đạt tới 2828,3 tỉ đôla. Đến năm 1990, thu nhập bình quân theo đầu người của Nhật Bản lên tới 23796 đôla, đứng thứ hai trên thế giới sau Thuỵ Sĩ (29850 đôla). Trong công nghiệp, lĩnh vực sản xuất vật chất then chốt, Nhật Bản đã đạt được những bước phát triển mạnh nhất và nhanh nhất. Năm 1950, giá trị sản lượng công nghiệp của Nhật Bản mới chỉ đạt 4,1 tỉ đôla, bằng 1/28 của Mĩ (113,9 tỉ đôla), nhưng đến năm 1969 đã vươn lên tới 56,4 tỉ đôla, vượt tất cả các nước Tây Âu và chỉ thua Mĩ với tỉ lệ ¼. Hiện nay, Nhật Bản đứng đầu thế giới về sản lượng tàu biển (trên 50%), ôtô (năm 1985 sản xuất 12,3 triệu chiếc, trong đó 2/3 là ôtô con), thep, xe máy, máy điện tử (máy thu thanh, thu hình, ghi âm, ghi hình), máy khâu, máy ảnh, đồng hồ. Về nông nghiệp, Nhật Bản phát triển theo hướng thâm canh với trình độ cơ giới hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá và điện khí hoá rất cao. Những năm 1967 – 1969, sản lượng lương thực đủ cung cấp hơn 80% nhu cầu trong nước, ngành chăn nuôi tự giải quyết được 2/3 nhu cầu thịt sữa, còn ngành đánh cá rất phát triển, chỉ đứng sau Pêru với sản lượng cá tính theo đầu người hàng năm là 86 kilôgam.
Từ những năm 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế, tài chính của thế giới (Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản), dự trữ vàng và ngoại tệ của Nhật Bản đã vượt qua Mĩ. Hàng hoá Nhật Bản len lỏi, cạnh tranh khắp các thị trường thế giới (ôtô, máy móc điện tử, máy ghi hình, thu hình v.v…), ngay cả ở Mĩ và các nước Tây Âu. Từ một nước chiến bại, mất hết thuộc địa, đất nước bị chiến tranh tàn phá, dân số đông mà lương thực, thực phẩm lại rất thiếu thốn, nhưng chỉ sau vài ba thập niên, Nhật Bản đã vươn lên thành một siêu cường kinh tế, nhiều người gọi đó là “thần kì Nhật Bản”.
Kinh tế Nhật Bản có bước phát triển “nhẩy vọt” như thế, vì: 1 – Nhật Bản lợi dụng vốn của nước ngoài để tập trung đầu tư vào những ngành công nghiệp then chốt nhất như cơ khí, luyện kim, hoá chất, điện tử v.v… Ngoài ra, Nhật Bản ít phải chi tiêu về quân sự (do Mĩ gánh vác) và biên chế Nhà nước gọn nhẹ nên có điều kiện tập trung vốn đầu tư vào kinh tế; 2 – Nhật Bản biết lợi dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật để tăng năng suất, cải tiến kỹ thuật và hạ giá thành hàng hoá; 3 - Biết “len lách”, xâm nhập vào thị trường các nước khác, qua đó không ngừng mở rộng thị trường trên toàn thế giới; 4 - Những cải cách dân chủ sau chiến tranh (cải cách ruộng đất, xoá bỏ những tàn tích phong kiến…) đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển; 5 - Truyền thống “tự lực, tự cường” vươn lên xây dựng đất nước giàu mạnh trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn của nhân dân Nhật Bản kể từ Minh Trị duy tân.
Nhưng kinh tế Nhật Bản cũng bộc lộ những mặt hạn chế và nhược điểm: 1- Sự không cân đối trong nền kinh tế (giữa công nghiệp và nông nghiệp; tập trung vốn, công nhân và dân số vào ba trung tâm công nghiệp Tôkiô, Ôxaka, Nagôia với số dân trên 60 triệu người, trong 1,25% diện tích đất đai cả nước, tạo nên một nước Nhật hiện đại và một nước Nhật cũ lạc hậu đối lập nhau); 2 - Những khó khăn về năng lượng, nguyên liệu và lương thực (hầu hết phải nhập từ nước ngoài); 3 - Sự cạnh tranh, chèn ép của Mĩ, Tây Âu và sự vươn lên của các nước Công nghiệp mới (NICs).
Giới lãnh đạo Nhật Bản hết sức coi trọng việc phát triển khoa học – kỹ thuật và cải cách nền giáo dục quốc dân. Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng hàng trăm viện nghiên cứu về các ngành khoa học – kỹ thuật, chủ yếu tập trung đi sâu vào các ngành công nghiệp dân dụng và phục vụ cho mục tiêu dân dụng (khác một số nước chuyên đi sâu vào công nghiệp quân sự và chinh phục vũ trụ). Ngoài ra, Nhật Bản còn tìm mọi cách nhập những kỹ thuật hiện đại và phương pháp sản xuất tiên tiến của nước ngoài bằng cách mua những bằng phát minh (tính đến năm 1968, Nhật Bản đã mua những bằng phát minh của nước ngoài trị giá lên tới 6 tỉ đôla, nhưng nếu tự nghiên cứu sẽ phải chi tiêu tới 200 tỉ đôla, bằng 1/3 tổng số tích luỹ tư bản cố định trong thời gian này). Hiện nay, Nhật Bản được xếp vào một số quốc gia đứng đầu về trình độ phát triển khoa học – kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp dân dụng. Nhật Bản đã đạt được những thành tựu kì diệu về khoa học – kỹ thuật: hoàn thành đường hầm ngầm dưới biển dài 53,8 km nối liền hai đảo Hônsu và Hôccaiđô; xây dựng chiếc cầu đường bộ dài 9,4 km nối liền đảo Xicôcư với Hônsu; xây dựng các trung tâm công nghiệp, các thành phố mới trên mặt biển (lấn biển); đóng những tàu chở dầu 1 triệu tấn….
2. Tình hình chính trị và chính sách đối nội của giới cầm quyền Nhật Bản
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Mĩ thay mặt Đồng minh chiếm đóng và quản chế nước Nhật. Dưới áp lực đấu tranh của nhân dân Nhật Bản, của Liên Xô và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, giới cầm quyền Mĩ đã thực hiện một số cải cách dân chủ theo nội dung của Hiệp ước Pốtxđam về Nhật Bản mà ba người đứng đầu các nước Liên Xô, Mĩ, Anh đã kí kết (tại hội nghị ở Pốtxđam tháng 7 – 1945). Ngày 3 – 11 – 1946, Hiến pháp mới của Nhật Bản được ban hành với nhiều nội dung tiến bộ: công nhận và bảo đảm quyền tự do dân chủ, quyền lập hội, lập đảng của mọi công dân; Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội (Thiên hoàng tuy vẫn còn nhưng chỉ là người đứng đầu nhà nước có tính cách tượng trưng); “Nhật Bản không duy trì hải lục không quân và các lực lượng chiến đấu khác, không công nhận quyền tham gia chiến tranh với bất cứ nước nào” (điều 9)… Luật cải cách ruộng đất được thực hiện trong những năm 1946 – 1949, trong đó quy định địa chủ chỉ được giữ 3 hecta ruộng đất, số ruộng đất còn lại do chính phủ thu mua mang bán lại cho nông dân. Trong những năm 1946 – 1948 đã thi hành luật giải tán Đaibátxư ( tức các công ti lũng đoạn còn mang tính chất phong kiến, bị ràng buộc trong các quan hệ huyết thống, luật lệ phong kiến và chịu nhiều ảnh hưởng của các quý tộc phong kiến). Ngoài ra, đã tiến hành xét xử tội phạm chiến tranh, thanh lọc những tên cầm đầu phản động trong bộ máy nhà nước cũ, giải tán lực lượng vũ trang v.v…
Như thế, những cải cách này đã phá vỡ những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của chế độ quân chủ phong kiến quân phiệt. Nhà nước Nhật Bản ngày nay là một nhà nước theo chế độ quân chủ lập hiến về hình thức, nhưng thực chất là dân chủ đại nghị, mọi quyền lực nắ trong tay 6 tập đoàn tài phiệt khổng lồ (Mitsubisi, Mitxưi, Sumitômô, Phugi, Đaichi, Sanma)(1).
Suốt từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1993, Đảng Dân chủ tự do (chính đảng của giai cấp đại tư sản) liên tiếp cầm quyền ở Nhật Bản. Dựa vào sự giúp đỡ và câu kết chặt chẽ với Mĩ, giới cầm quyền Nhật Bản đã tìm mọi cách thu hẹp lại các quyền tự do dân chủ được quy định trong Hiến pháp 1946, sửa đổi lại điều 9 (không cho phép Nhật Bản xây dựng lực lượng vũ trang và đưa quân đi tham chiến ở nước ngoài). Họ ra sức tái vũ trang lại quân đội và phục hồi lại chủ nghĩa quân phiệt Nhật dưới nhiều hình thức khác nhau.
Sau chiến tranh, phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật Bản nhằm giành hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội không ngừng dâng cao. Đảng Cộng sản Nhật Bản, ra đời từ năm 1922 nhưng mãi tới năm 1946 mới giành được quyền hoạt động hợp pháp, đã trở thành một trong những chính đảng lớn, có ảnh hưởng trong nhân dân Nhật (trong cuộc bầu cử tháng 12 – 1972, Đảng giành được 40 ghế tại hạ viện, 11 ghế tại thượng viện và 1686 đại biểu hội đồng địa phương). Đảng đã thống nhất hoạt động với Đảng Xã hội phát động công nhân và nhân dân thực hiện những “cuộc tiến công mùa xuân”, “mùa thu” truyền thống hàng năm (trong những năm 60 và 70) nhằm chống sửa đổi hiếp pháp, đòi thực hiện những cải cách xã hội và cải thiện đời sống… Phong trào bãi công của công nhân Nhật cũng lên cao mạnh mẽ, cuộc bãi công của công nhân các ngành ngày 11 – 4 – 1974 đã làm cho 65 triệu người Nhật không có phương tiện đi lại, 30 triệu bưu kiện không được phân phát, 20 vạn tấn rác chất đống trên đường phố Tôkiô và chính phủ Nhật đã phải huy động 34 vạn cảnh sát để đàn áp cuộc bãi công. Cuối cùng, nhà cầm quyền Nhật đã phải đáp ứng yêu sách tăng lương và khôi phục quyền bãi công của công nhân.
3. Chính sách đối ngoại
Về mặt chính trị và quân sự, Nhật Bản hoàn toàn dựa vào Mĩ và câu kết chặt chẽ với Mĩ. Ngày 8 – 9 – 1951, Nhật kí với Mĩ “Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật”, chấp nhận đặt Nhật Bản dưới “ô bảo vệ hạt nhân” của Mĩ và để quân đội Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật. “Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật” đã gia hạn hai lần vào năm 1960 và năm 1970, sau đó kéo dài vô thời hạn. Với hiệp ước này, đã hình thành một “liên minh Mĩ - Nhật” nhằm chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc ở vùng Viễn Đông. Nhật Bản đã trở thành một “căn cứ chiến lược” của Mĩ trong âm mưu thực hiện “chiến lược toàn cầu” chống cách mạng vào những năm 70 và nửa đầu những năm 80, Mĩ còn trên đất Nhật 179 căn cứ quân sự với 61.000 quân, riêng ở đảo Ôkinaoa có 88 căn cứ quân sự và 35.000 lĩnh Mĩ. Nhật Bản đã dựa vào tiềm lực kinh tế, tài chính lớn mạnh của mình để tìm cách xâm nhập, giành giật thị trường ở khắp mọi khu vực trên thế giới. Sau chiến tranh, người ta thường gọi Nhật Bản là một “đế quốc kinh tế”, tức là đế quốc đã bành trướng, xâm nhập và mở rộng phạm vi thế lực bằng kinh tế trên khắp mọi nơi, đặc biệt là vùng Đông Nam Á. | | | | |
|
|