Nguyên nhân dẫn dến thành lập chủ nghĩa phát xít.Và mở màn cho các cuộc chiến đẫm máu :[u]
Cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới trong những năm 1929 - 1933 có nguồn gốc sâu xa từ thực trạng cung vuợt quá cầu, do những biến đổi rõ rệt trên cán cân quyền lực toàn cầu kể từ sau Hội nghị Versailles (1919). Kẻ thắng trận thì phè phỡn, hả hê ; người chiến bại thì vừa phải gồng gánh hậu quả chiến tranh vừa phải nai lưng ra bồi thường các khoản chiến phí. Từ những hoàn cảnh khắc nghiệt đó, ở một số nước châu Âu và Nhật Bản bắt đầu nảy sinh các trào lưu tư tưởng được gọi là "chủ nghĩa phục thù" - tức là muốn "đòi lại những gì đã mất". Trong khi các nước tư bản giành phần thắng trong cuộc Đại chiến I ra sức củng cố nền kinh tế bằng nhiều chính sách mang tính tập trung, phúc lợi thì ở những nước như Đức, Ý, Nhật, bước đầu hình thành nên một trào lưu dân tộc cực đoan chủ nghĩa, hay còn gọi là chủ nghĩa phát xít. Các lực lượng cực hữu này công khai đòi phát động chiến tranh toàn cầu, chia lại thị trường thế giới, tất nhiên có lợi cho họ.
Từ nghĩ đến hành động, ngay từ trước những năm khủng hoảng, lẻ tẻ đã bắt đầu xảy ra các vụ bạo động, nổi loạn (điển hình nhất là cuộc bạo loạn nhà hàng bia - tiểu bang Bayern nước Đức, 8 - 1 - 1923) hòng thiết lập một thể chế quyền lực kiểu mới : chế độ độc tài phát xít. Cuối cùng thì, bằng vô số thủ đoạn từ công khai đến thâm hiểm, thậm chí rất tàn ác, ngày 30 - 1 - 1933, Adolf Hitler chính thức được bổ nhiệm làm Thủ tướng của nền Cộng hòa Weimar. Như thế, không phải Tổng thống Paul von Hindenburg đã bổ nhiệm Hitler mà chính những thế lực quân phiệt chủ nghĩa đã hợp sức đưa ông ta lên "ngai vàng". Cũng không nằm ngoài bất cứ một nguyên cớ nào, chỉ ngay sau khi lên làm Thủ tướng, và nhất là chỉ ít lâu sau cái chết của Tổng thống đương nhiệm, Adolf Hitler - một công dân có nguồn gốc xứ Waldviertel nước Áo - tự xem như quyền lực tuyệt đối đã nằm gọn trong tay hắn và Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, NSDAP).
Năm 1934, Adolf Hitler tự xưng "Führer und Reichskanzler" (Lãnh tụ và Thủ tướng Đế quốc), chính thức thiết lập thể chế độc tài phát xít lại chỉ do một đảng duy nhất nắm quyền trên toàn cõi nước Đức. Sự "chào đời" của tên đồ tể mang tên Đế chế III là như thế !
Bằng cái sự kiện tưởng như bình thường đó, mà chỉ vài năm sau, thế giới bắt đầu ngột ngạt bởi bóng ma chủ nghĩa phát xít Đức - Ý - Nhật đang lớn mạnh từng ngày. Từ năm 1934 cho đến năm 1939 là giai đoạn "thanh lọc thể chế" đồng thời củng cố, phát triển các cơ sở hạ tầng chuẩn bị cho những cuộc đối đầu ở giai đoạn tiếp theo. Rất nhiều Đảng viên Cộng sản hoặc các đối thủ chính trị đều bị ám hại từ công khai đến bí mật, chế độ phân biệt chủng tộc (đặc biệt là người Do Thái, công dân gốc Slav, Á - Phi) cùng với trào lưu đề cao "dòng máu Đức thượng đẳng" dần dần lộ diện. Cảm tưởng như chỉ trong tích tắc, một đạo quân lớn hàng triệu người với trang thiết bị vào loại khủng khiếp nhất thế giới đã thay thế cho một nhóm quân nhân mấy trăm ngàn vốn bị hạn chế bởi Hòa ước Versailles...
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức đồng loạt kéo quân sang Ba Lan, chính thức châm ngòi cho cuộc chiến tranh xâm lược đất nước Ba Lan và toàn bộ châu Âu. Vậy là, Thế chiến II đã bùng nổ, bóng đen của chủ nghĩa phát xít đã bắt đầu lan rộng trên toàn thế giới (bên này là Đức, Ý và bên kia là Nhật Bản). Nhưng phải đến năm 1941, sau khi đã nuốt gần trọn châu Âu (trừ Anh và một vài nước trung lập), 3 giờ 30 phút rạng sáng ngày 22 tháng 6, không quân Đức đồng loạt tấn công các thành phố, doanh trại, căn cứ quân sự trong tầm từ biên giới Liên Xô đến sâu 300 km trong nội địa. Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh (kế hoạch Barbarossa) của phát xít Đức hòng khuất phục Nhà nước Soviet bắt đầu. Ngay trong các giờ đầu tiên của đợt tấn công bất ngờ này, hơn 1200 máy bay chiến đấu Xô Viết đã bị phá hủy ngay trên sân bay mà chưa kịp cất cánh, không quân Soviet gần như tê liệt, phát xít Đức đã làm chủ tuyệt đối bầu trời. Sau các đợt tấn công bằng không quân và pháo binh, các mũi xe tăng Đức tấn công mãnh liệt chia cắt các đơn vị quân đội Soviet. Chiến sự ác liệt đã diễn ra trên một mặt trận rộng lớn từ biển Bắc tới biển Đen trong suốt 3 năm sau đó...
Hàng triệu ngôi nhà, hàng triệu công trình bị phá hủy, và hơn cả, cũng từng ấy người con Soviet đã ngã xuống nhưng không hề nuối tiếc, bởi họ đã chiến đấu đến cùng vì quê hương - đất nước và vì nhân loại. Topic này nay được phục hồi sau sự cố sập mạng vừa rồi như một sự tri ân những con người đã dũng cảm đứng lên cứu cả thế giới khỏi sự hủy diệt khủng khiếp, những mong rằng Topic có thể tái hiện một phần nào chiến thắng vinh quang của một đội quân - một dân tộc...!
Đối với các bạn học sinh - sinh viên và tất cả những ai quan tâm đến các sự kiện lịch sử thì tôi hi vọng, đây sẽ là nơi chúng ta có thể đóng góp chút hiểu biết của mình không những để kiếm bổ sung tài liệu học tập mà còn là cơ hội trau dồi kiến thức lịch sử cho bản thân !
Cứ mỗi độ tháng năm, khi mùa xuân về, linh hồn những chiến sĩ Soviet đã hi sinh trên các chiến trường Ba Lan và Tiệp Khắc, Hungaria và nước Đức ; tất cả lại tìm về với Đất Mẹ, tìm về với mảnh đất mà họ đã hiến dâng cả cuộc đời để Người mãi mãi mùa xuân nở hoa ! (Lời kết trong bộ phim "Tinh cầu")
SƠ LƯỢC VỀ CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ HAI 1939 - 19451939
Chiến sự khởi đầu tại Bal Lan, sau đó quân đội Đức và quân đội Liên Xô ký hiệp định không gây hấn với nhau và đã cùng chia cắt đất nước Ba Lan thành hai vùng chiến tuyến. Sau đó, Thế chiến II chỉ thực sự bắt đầu khi Anh và Pháp tuyên bố chiến tranh. Tại Trung Quốc, Trung - Nhật (Sino - Japanese) đã hâm nóng cuộc chiến sau sự xung đột nhỏ - Trận Phụng Thiên năm 1931.
1940
Là một thời kỳ "lận đận" nhất của các nước Đồng minh. Pháp bị thất thủ. Nước Anh phải một mình đơn phương độc mã chống chọi lại với Đức Quốc xã và hầu như không có được một sự phòng thủ nào để chống lại các cuộc tấn công của quân địch. Duy chỉ có một số ít lực lượng phi cơ chiến đấu được tồn tại. Các hãng hàng không dân sự của Anh thì vào thời kỳ này hoàn toàn là không có. Nước Ý thì tuyên bố chiến tranh và bắt đầu xâm chiếm Bắc Phi.
Tại Trung Quốc, quân Nhật thực sự không thể làm gì hơn được nữa để tăng sức mạnh cho quân đội, do vậy họ chỉ xâm chiếm được các thành phố thuộc vùng duyên hải, và không thể tiến sâu vào bên trong lãnh thổ Trung Hoa. Bên trong, Tưởng Giới Thạch còn lo ngại về sức mạnh của những người Cộng sản (Hồng quân Trung Hoa) hơn cả quân Nhật.
1941
Hitle bắt đầu xâm chiếm Liên Xô. Nước Anh tiếp tục thất thủ tại Hy Lạp, nhưng họ cũng đã chiến thắng trong các cuộc chống trả, còn quân Ý tại Libya cho mãi đến khi lính Đức đến họ mới tạm thu binh. Đến cuối năm, khối liên minh (Đức, Ý, Nhật) mở các cuộc tấn công dữ dội, vào thời gian này nước Mỹ bắt đầu tham chiến.
Chiến tranh lại càng dữ dội khi quân Nhật tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu cảng. Cùng thời gian Nhật Bản tấn công các nước Đông Nam Á như Guam, Wake, Philippines, Singapore và rất nhiều quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Quân Đồng minh đã không chuẩn bị được nhiều tinh thần để đối kháng, bao gồm cả việc đánh giá quá thấp đối với quân đội Nhật Bản thời bấy giờ, Chiến tranh Trung - Nhật đã mở rộng trên khắp đất nước Trung Hoa cùng với chiến sự trên khắp thế giới.
1942
Đây là thời kỳ duy nhất mà quân Nhật có cơ may chiến thắng trên các chiến trường. Với những thắng lợi trong tháng 12 - 1941 và nửa đầu năm 1942, quân Đồng minh rất khó khăn trong việc chi viện cho cả hai chiến trường tại châu Âu và Nhật Bản. Trong tháng 6-1942 quân Nhật bành trướng và kết thúc giá băng tại trận chiến tại Midway. Trong hải phận xung quanh vùng Guadalcanal thường xuyên có hai lực lượng hải quân đụng độ nhau rất khốc liệt, trên đất liền chiến sự cũng xảy ra ác liệt.
Cùng thời điểm, Tướng Mỹ là MacArthur đưa quân đội Úc tiến thẳng vào vùng biển New Guinea, do ông ta không có trong tay một binh lực Mỹ nào cả. Cuối năm 1942, lực lượng quân đội Hoa Kỳ đổ bộ và tham chiến. Cuộc chiến bắt đầu bắt đầu kéo dài, thảm khốc và quyết liệt.
Hoa Kỳ rất khó khăn trong việc bình định ở Thái Bình Dương, quân đội của họ không thể mở được các chiến dịch hành quân ở châu Âu, đến mãi thời điểm cuối cùng của năm 1942, Hoa Kỳ mới thành lập được những kế hoạch tác chiến bằng không lực rất khổng lồ để công kích lại lực lượng của quân Đức. Quân đội Anh cố gắng đột kích ồ ạt trên vùng biển nước Pháp. Trong khi ấy, quân Đức hi vọng trong mùa hè này sẽ đạt được nhiều ưu thế hơn trên những thành phố của Liên Xô bằng những chiến dịch quyết liệt. Quân Đức cũng phải đương đầu với những trận chiến tại bắc Phi nơi mà quân đội Anh đang nắm giữ. Nếu như quân Đồng minh không dành được sự kiểm soát tại Đại Tây Dương, họ sẽ không thể triển khai tấn công ở bất kỳ nơi nào nữa.
1943
Không có "Bắt đầu của sự kết thúc, nhưng kết thúc của sự khởi đầu" (beginning of the end, but the end of the beginning). Năm1943 là bước ngoặt của chiến tranh, đồng nghĩa với sự bại trận khắp nơi của quân Trục. Hồng quân Liên Xô đã đánh tan tác Quân đoàn 6 tại Stalingrad, tiêu diệt và bắt giữ 600 ngàn lính Đức. Hải quân Đồng minh đã phá tan hạm đội U-boats (Tàu ngầm) làm cho quân Đức không thể xoay chuyển được tình thế. Cùng năm quân Đức bị đuổi khỏi Bắc Phi.
Trong năm 1943, quân đội Hoa kỳ đã lên kế hoạch cấp tốc để bắt đầu triển khai quân đội tham chiến. Trong khi đó Nhật Bản lại không thể thực hiện nổi các kế hoạch trong một chương trình khổng lồ để đóng mới và trang bị thêm tàu chiến cho lực lượng hải quân của mình, do lúc này họ rất thiếu sắt thép, xăng dầu và các nguồn phụ trợ khác. Tướng MacArthur thì liên tục tiến quân đến gần New Guinea. Quân Đồng minh trong khi đó cũng chiếm giữ vùng Aleutians (một quần đảo từ bắc Thái Bình Dương kéo dài đến Tây Nam Alaska) đó là một sự khởi đầu thuận lợi cho các thế trận của quân Đồng minh và họ sẽ không bao giờ để mất vị trí này. Tháng 11 năm 1943 các giao tranh khốc liệt trên những hòn đảo nằm giữa Thái Bình Dương bắt đầu. Đầu tiên là cuộc chiến đổ bộ xuống quần đảo Tarawa là một sự cảnh cáo thật đẫm máu và khốc liệt. Đối với quân Nhật thì đây thực sự là một sự hủy diệt vì tất cả quân lính đồn trú của họ trên các hòn đảo này bị tiêu diệt không sót một người nào. Tháng 12 - 1943, chiến sự ở Thái Bình Dương đã bước sang năm thứ hai.
1944
Đây là một năm có nhiều diễn biến khá quan trọng. Sự đình trệ tại Ý. Phía Tây cuộc chiến, quân Đồng minh lập kế hoạch tập kích Hitler tại phòng tuyến Đại Tây Dương. Một loại vũ khí mới tấn công vào London. Lính Đức cướp bóc và tàn phá châu Âu rất ghê rợn, chúng đã giết và thủ tiêu hàng triệu tù nhân… Đây là một năm đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh của loài người. Các cuộc đổ bộ vào Hà Lan là một kế hoạch và thời điểm tồi tệ nhất, nhưng đó cũng không thể cản được những bước tiến quân của các nước Đồng minh. Hồng quân Liên Xô đã bắt đầu duy trì được các cuộc tiến công đến Berlin. Sau khi bị thất bại tại thung lũng Ardennes, Hitler đã thử liều lĩnh và mạo hiểm giành lại chiến thắng vào thời điểm cuối năm này.
Trong năm này có đến một nửa trong số những người bị tử thương trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Đế quốc Nhật thông qua một kế hoạch duy nhất là : Tiêu diệt bằng hết quân Đồng minh nếu có thể để làm tê liệt ý chí chiến đấu của họ và sẽ thương lượng một cuộc đàm phán để ngừng bắn theo sự tiên quyết của phía Nhật Bản. Nhưng kế hoạch này đã đánh giá quá thấp về thực lực hiện tại của quân đồng minh. Vì vậy các cuộc chiến vẫn ngày càng khốc liệt hơn để dồn quân Nhật vào phía cuối của chân tường.
1945
Bắt đầu năm 1945 nó hiển nhiên đến với cả ở hai bên chiến tuyến bằng một thực tế là : Chiến tranh sẽ kết thúc theo hướng dẫn dắt bởi định hướng của quân Đồng minh. Trong cuộc chiến này, tham vọng ghê tởm của của Đức quốc xã đã bị phơi bày, Quân Đồng minh đã dần làm chủ được cục diện. trong cuộc thảo luận của ba nguyên thủ tại Yalta. Quân Đồng minh sẽ đánh chiếm các vùng Rhine, Hồng quân Liên Xô sẽ tiến thẳng tới Berlin. Một kế hoạch dội bom thẳng xuống lãnh địa Nhật Bản đã được soạn thảo. Vụ ném bom nguyên tử cũng đã xảy ra. Chiến tranh kết thúc.