1. Tình hình kinh tế, xã hội Ấn Độ nửa sau thế kỉ XIX.
- Về kinh tế:
+ Thực dân Anh mở rộng công cuộc khai thác Ấn Độ với quy mô rộng lớn.
+ Ra sức vơ vét các nguồn nguyên liệu và bóc lột công nhân rẻ mạt để thu lợi nhuận. Ấn Độ trở thành thuộc địa quan trọng nhất nền công nghiệp Anh.
- Về chính trị - xã hội:
+ Chính phủ Anh nắm quyền cai trị trực tiếp Ấn Độ.
+ Thực dân Anh đã thưch hiện chính sách chia để trị, mua chuộc tầng lớp có thế lực trong giai cấp phong kiến bản xứ.
+ Anh còn tìm cách khơi sâu sự cách biệt về chủng tộc, tôn giáo và đẳng cấp trong xã hội để dễ bề cai trị.
2 Cuộc khởi nghĩa Xi-pay
- Nguyên nhân:
+ Do tinh thần dân tộc, long yêu nước, ý chí đấu tranh chống sự thống trị của thực dân Anh của nhân dân Ấn Độ
+ Do binh lính Xi-pay bị sĩ quan Anh bạc đãi, khinh rẽ.
- Diễn biến:
+ Sáng ngày 10/05/1857, ở Mi-rút (gần Đê-li), khi thực dân Anh sắp áp giải 85 binh lính Xi-pay trái lệnh, thì ba trung đoàn Xi-pay nổi dậy khởi nghĩa bắt bọn chỉ huy Anh. Nông dân các vùng lân cận cũng tham gia nghĩa quân, vây bắt chỉ huy Anh.
+ Khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng đến Đê-li, khắp miền Bắc và một phần miền Tây Ấn Độ + Nghĩa quân đã lập được chính quyền ở 3 thành phố lớn. Cuộc khởi nghĩa duy trì được 2 năm thì bị thực dân Anh dốc toàn bộ lực lượng đàn áp dã man. Nhiều nghĩa quân bị quân Anh trói vào họng sung đại bác, rồi bắn cho tan xương lát thịt. Khởi nghĩa bị thất bại.
- Ý nghĩa: Thể hiện lòng yêu nứơc, ý thức dân tộc và tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Ấn Độ chống chủ nghĩa thực dân Anh giải phóng dân tôc.
3. Đảng Quốc đại và phong trào dân tộc (1905-1908).
a. Đảng Quốc đại
- Từ giữa thế kỉ XIX, giai cấp tư sản và tầng lớp trí thức Ấn Độ đã dần dần đóng vai trò quan trọng.
- Tư sản Ấn Độ muốn được tự do phát triển kinh tế và đòi hỏi được tham gia chính quyền, nhưng bị thực dân Anh kìm hãm.
- Cuối năm 1885, Đảng Quốc dân Đại hội (Quốc đại) thành lập. Đó là chính Đảng đầu tiên của của giai cấp tư sản Ấn Độ. Nó đánh dấu một giai đoạn mới, giai đoạn giai cáp tư sản Ấn Độ bước lên đài chính trị.
- Trong 20 năm đầu (1885-1905), Đảng Quốc đại chủ trương dung phương pháp ôn hoà để đòi hỏi chính phủ thực dân tiến hành cải cách và không tán thành phương pháp đấu tranh bằng vũ lực.
- Về sau, một phái dân chủ cấp tiến do B.Ti-lắc đứng đầu, thường được gọi là phái “cực đoan”. Phái này phản đối thái độ thoả hiệp của phái ôn hoà, đòi hỏi có thái độ kiên quyết chống Anh.
b. Phong trào dân tộc.
- Tháng 7/1905, chính quyền Anh thi hành chính sách chia để trị. Ban hành đạo luật chia đôi xứ Ben-gan: miền Đông theo đạo Hồi và miền Tây theo đạo Ấn. Điều đó làm bùng nổ lên phong trào đấu tranh chống thực dân Anh, đặc biệ ở Bom-bay và Can-cút-ta.
- Ngày 6/10/1905, đạo luật chia cắt Ben-gen bắt đầu có hiệu lực, nhân dân coi đó là ngày quốc tang: Hơn 10 vạn người kéo đến bờ song Hằng, dòng sông linh thiêng của người Ấn, làm lễ tuyên thệ và hát vang bài “Kính chào người - mẹ hiền Tổ quốc” để tỏ ý thống nhất. Khắp nơi vang lên khẩu hiệu “Ấn Độ là của người Ấn Độ”.
- Tháng 6/1908, thực dân Anh bắt Ti-lắc và tuyên án ông 6 năm tù. Vụ án Ti-lắc thổi bùng lên một đợt đấu tranh mới. Hàng vạn công nhân Bom-bay tiến hành tổng bãi công 6 ngày (để trả lời 6 năm tù của Ti-lắc), xây dựng chiến luỹ, thành lập các đơn vị chiến đấu chống lại quân Anh. Các thành phố khác cũng hưởng ứng, cuộc đấu tranh lên đỉnh cao buộc thực dân Anh phải thu hồi đạo luật chia cắt Ben-gen.
- Cao trào 1905-1908 thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Ấn Độ chống chủ nghĩa thực dân Anh. Phong trào này do một bộ phận giai cấp tư sản lãnh đạo, mang đậm ý thức dân tộc, thực hiện mục tiêu chiến tranh vì một nước Ấn Độ độc lập và dân chủ