Nguyễn Văn Trỗi (1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một người đã thực hiện cuộc đánh bom không thành nhằm mưu sát Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ khi đó là Robert McNamara. Tuy bị bắt và bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa kết án tử hình, nhưng ngay trong quá trình xét xử ông, ông đã trở nên nổi tiếng với những lời tuyên bố nảy lửa và được những người cộng sản Việt Nam tôn vinh như một người anh hùng trong Chiến tranh Việt Nam.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1940, là con thứ ba (do đó ông còn có tên là Tư Trỗi) trong một gia đình nghèo tại làng Thanh Quít, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Sau Hiệp định Genève, gia đình ông vào Sài Gòn sinh sống. Lớn lên, ông làm thợ điện ở nhà máy điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử cánh Tây Nam Sài Gòn.
Năm 1964, ông được tập huấn cách đánh biệt động nội thành ở căn cứ Rừng Thơm, Đức Hòa (Long An).
Ngày 2 tháng 5 năm 1964, ông nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu. Công việc bại lộ, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày 9 tháng 5 năm 1964.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa ông ra tòa án quân sự kết án tử hình. Để cứu ông, một tổ chức du kích Venezuela tuyên bố trao đổi ông với một con tin là trung tá không quân Mỹ là Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy nhiên, sau khi viên sĩ quan Mỹ vừa đuợc trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn.
Ông bị xử bắn tại sân sau nhà lao Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày 15 tháng 10 năm 1964, trước sự chứng kiến của nhiều phóng viên nước ngoài. Những phút cuối cùng, ông tỏ ra rất can đảm, không đồng ý bịt mắt và xưng tội và hô lên những lời cuối cùng được các phóng viên ghi lại:
"Hãy nhớ lấy lời tôi! Đả đảo Đế quốc Mỹ!" "Hồ Chí Minh muôn năm! Việt Nam muôn năm!" Sau khi ông chết, ông được truy nhận Đảng viên Nhân dân Cách mạng miền Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Thành đồng hạng nhất.
Sau khi ông bị xử bắn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa bí mật cho chôn ông tại nghĩa trang Văn Giáp ở Giồng Ông Tố (nay thuộc phường Bình Trưng Đông, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh). Sau nhiều ngày tìm kiếm, cha đẻ và vợ ông mới tìm thấy mộ.
Ông lập gia đình với bà Phan Thị Quyên năm 1964. Bà cũng bị bắt sau ông vài ngày nhưng sau đó được thả ra vì không có bằng chứng kết tội. Hai người chưa có với nhau người con nào. Sau khi ông bị xử bắn, bà được các đồng chí của ông đưa ra Bắc học. Năm 1973, bà tái giá với một người bạn học ở ngoài Bắc là Lê Tâm Dũng (Ba Dũng).
Tue Jun 23, 2009 5:09 pm
văn, sử, viết nhật ký và mèo
Thành viên cấp 2
Hoàng Cloud
Họ & tên : Hồng Vân
Huy chương Cống hiến :
Ngày tham gia : 16/06/2009
Tổng số bài gửi : 52
Đến từ : Lạng Sơn
Sở trường/ Sở thích : văn, sử, viết nhật ký và mèo
Điểm thành tích : 90
Được cám ơn : 20
Tiêu đề: Re: NGUYỄN VĂN TRỖI
Tố Hữu có bài thơ "hãy nhớ lấy lời tôi" viết về Nguyễn Văn Trỗi đó mọi người đọc để biết thêm nha!
Tue Jun 23, 2009 8:39 pm
ko có gì là nổi bật, ko có gì là cao xa hay vĩ đại
Thành viên mới gia nhập
nguyenvan.20
Họ & tên : nguyenvan
Ngày tham gia : 23/06/2009
Tổng số bài gửi : 12
Đến từ : Vĩnh phúc
Sở trường/ Sở thích : ko có gì là nổi bật, ko có gì là cao xa hay vĩ đại
Điểm thành tích : 38
Được cám ơn : 12
Tiêu đề: Re: NGUYỄN VĂN TRỖI
Bài thơ "Hãy nhớ lấy lời tôi"
Có những phút làm nên lịch sử Có cái chết hóa thành bất tử Có những lời hơn mọi bài ca Có con người như chân lý sinh ra. Nguyễn Văn Trỗi! Anh đã chết rồi Anh còn sống mãi Chết như sống, anh hùng, vĩ đại. Hỡi người Anh, đã khép chặt đôi môi Tiếng anh hô: Hãy nhớ lấy lời tôi! Đang vang dội. Và ánh đôi mắt sáng Của Anh đã chói ngời trên báo Đảng
*** Nghìn năm sau sẽ nhớ lại hôm qua Một sáng mùa thu, giữa khám Chí Hòa Anh đi giữa hai tên gác ngục Và sau chúng, một người linh mục. Anh bước lên, nhức nhói chân đau, Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu Quần áo trắng một màu thanh khiết Thây gầy yếu mạnh hơn cái chết. Bầy giết thuê và lũ viết thuê Hai hàng đen, súng cắm lưỡi lê Anh bước tới, mắt nhìn, bình thản Như chính Anh là người xử án. Cỏ trong vườn mát dưới chân Anh Đời vẫn tươi màu lá rau xanh Đây miếng đất của Anh đòi giải phóng Đây máu thịt của Anh đòi cuộc sống. Anh thét to: "Ta có tội gì đây?" Chúng trói Anh vào cọc, mấy vòng dây Mười họng súng. Một băng đen bịt mắt. Anh thét lớn: "Chính Mỹ kia là giặc!" Và tay Anh giật phắt mảnh băng đen Anh muốn thiêu, bằng mắt, lũ đê hèn Với cái chết, Anh muốn nhìn giáp mặt Như ngọn lửa không bao giờ dập tắt! Chúng run lên, xông trói chặt Anh hơn Đôi môi Anh đã khô cháy căm hờn: Phải chiến đấu không sợ gì súng đạn! Lệnh: Hàng đầu quỳ xuống! Một giây thôi Anh thét lên: Hãy nhớ lấy lời tôi: Đả đảo đế quốc Mỹ! Đả đảo Nguyễn Khánh! Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm! Phút giây thiêng, Anh gọi Bác ba lần! Súng đã nổ, mười viên đạn Mỹ Anh gục xuống. Không. Anh thẳng dậy Anh hãy còn hô: Việt Nam muôn năm! Máu tim Anh nhuộm đỏ đất Anh nằm. Mắt đã nhắm, không một lời rên rỉ, Anh chết vậy, như thiên thần yên nghỉ. Chẳng cần đâu, cây thánh giá sắt tây Của tay người linh mục ném bên thây!
*** Anh đã chết, Anh Trỗi ơi, có biết Máu kêu máu, ở trên đời, tha thiết! Du kích quân Ca-ra-cát đã vì Anh Bắt một tên giặc Mỹ giữa đô thành. Anh đã chết. Anh chẳng còn thấy nữa Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa Như trái tim Anh, ôi lửa nào bằng! Phút cuối cùng, chói lọi khối sao băng... Hãy nhớ lấy lời tôi! Nguyễn Văn Trỗi Lời Anh dặn, chúng tôi xin nhớ: Hãy sống chết quang vinh Trước kẻ thù không sợ Vì Tổ quốc hi sinh Như đời Anh, người thợ.