Hoàn cảnh ra đời
Ngay từ buổi đầu Đảng ta đã xác định văn hóa cũng là một công tác quan trọng trong cuộc chiến chông xâm lược. Vì vậy, việc phát triển lực lượng trong lĩnh vực văn hóa được ưu tiên thực hiện. Nhưng do nhiều hoàn cảnh khách quan cũng như sự phát triển của lực lượng trên mặt trận này mà công tác văn hóa tương đối mờ nhạt vào giai đoạn đầu.
Tháng năm 1941, trên tinh thần của Hội nghị Trung Ương VIII, về việc tập hợp lực lượng toàn dân phục vụ cho mục tiêu chung của dân tộc Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh ra đời nhằm đoàn kết toàn thể dân tộc, không phân biệt tôn giáo, đàng phái và xu hướng chính trị chỉ cần có một tinh thần yêu nước. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Mặt Trận Việt Minh chủ trương thành lập những tổ chức mang tên Cứu Quốc hoạt động như là thành viên của Mặt Trận Việt Minh.
Mặt Trận Việt Minh hoạt động ở cả thành thị và nông thôn, lôi kéo được nhiều tầng lớp trung gian: tiểu tư sản thành thị, trí thức, học sinh sinh viên, công chức,..
Trong khi Mặt Trận Việt Minh đang hoạt động sôi nổi thì cả Pháp và Nhật đều nhận thấy tầm quan trọng của việc lôi kéo những tầng lớp trung gian , vì vậy chúng tích cực hoạt động nhằm xây dựng một đội ngũ tay sai đắc lực giúp chún đứng vũng ở Đông Dương.
Về phía Pháp
lôi kéo thanh niên vào những phong trào do Pháp tổ chức: phong trào Đuy Curoi, phong trào “hướng đạo”, đi theo chủ nghĩa “ Pháp – Việt đề huề”.
Để đào tạo thêm lực lượng tay sai, Pháp lập thêm các trường: Cao Đẳng thể dục, Cao Đẳng cán bộ Thanh Niên,… đồng thời việc này cũng nhằm ru ngũ một bộ phận thanh niên củng cố uy tín của Pháp.
Khuyến khích bổ trợ cho nhiều hoạt động của thanh niên nhằm làm họ sao lãng nhiệm vụ cứu nước và chiếm cảm tình của họ: tố chức “cuộc họp mặt hướng đạo toàn Đông Dương” (4/1941) “ chạy Hỏa bài Ăng ko – Hà Nội” (11/1941), “đua xe đạp quanh Đông Dương” (12/1941),…
Nhật cũng tích cực hoạt động không kém gì Pháp
ủng hộ “ Việt Nam phục quốc Đồng Minh hội”
không ngừng tuyên truyền cho thuyết “Đại Đông Á”: tháng 12/1942 cho xuất bản tờ báo “Tân Á” ở Sài Gòn, mở lớp dạy tiếng Nhật cho bác sĩ, kỹ sư, công chức, học sinh – sinh viên,…
cho thanh niên sang Nhật du học
đặc biệt quan tâm đến các lực lượng phản động trong các tổ chức ton giáo : Cao Đài, Hòa Hảo,…
Trước những hành động như thế của 3 lực lượng đối đầu nhau, tầng lớp học sinh, sinh viên, trí thức phân hóa thành 3 bộ phận chính:
một số lượng đáng kể có thái độ lừng chừng, không theo phe nào, họ thờ ơ với thời cuộc, hoặc hoài nghi, chán nản tự giam mình trong những “ Tháp ngà”, thường là những thanh niên trí thức có việc làn ổn định, buôn bán nhỏ.
Một bộ phận khác bị cuống hút các tổ chức thanh niên, tôn giáo của Pháp hoặc Nhật, chủ yếu là những học sinh, sinh viên trí thức con quan lại, công chức thân Pháp hoặc Nhật, thị dân có của,..họ bị ru ngũ trong những hoạt động của Pháp và Nhật, thậm chí có những hành động gây nguy hại cho lợi ít dân tộc.
Một bộ phận không nhỏ có tinh thần yêu nước, có tư tưởng chống Pháp và Nhật, có cảm tình với Cách mạng, tập hợp trong các tổ chức tiến bộ : Tổng hội Sinh Viên Đông Dương, Hội Truyền bá Quốc Ngữ, hội Hướng Đạo học sinh – sinh viên,…hoặc các tờ báo có xu hướng yêu nước: Thanh Nghị, Tri Tân, Thanh Niên,…
Sang năm 1943, tình hình trong nước nhiều biến đổi, nhất là phong trào cách mạng thế giới đang dâng cao, điều này tác động mạnh đến tầng lớp trí thức là những người vốn rất nhạy cảm trước những vấn đề chính trị.
Vì vậy Mặt Trận Việt Minh lúc này cần hơn bao giờ hết những định hướng phát triển nhằm thu hút lực lượng học sinh – sinh viên, trí thức phục vụ cho cách mạng.
Trước yêu cầu đó, đầu năm 1943, văn kiện “ Đề cương văn hóa Việt Nam” được ban hành, xác định rõ những tính chất, phương hướng hoạt động để xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam. Trên tinh thần bản đề cương này, tháng 4/1943 Hội Văn hóa Cứu quốc được thành lập hoạt động bên cạnh các tỗ chức cứu quốc khác của Mặt trận Việt Minh.
2. Hoạt động của Hội Văn hóa Cứu quốc.
Hội văn hóa cứu quốc được thàn lập với kỳ vọng: nêu lên những nguyên tắc hướng dẫn sự sáng tạo văn hóa nghệ thuật, đề xuất những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của các nhà văn hóa Việt Nam.
Hai nhiệm vụ chính đặc ra cho hội là:
Gạt bỏ những tiêu cực văn hóa phong kiến lạc hậu trong văn hóa Việt Nam, tuy nhiên loại bỏ không phải là xóa sạch những yếu tố văn hóa Việt Nam mà là phát huy những yếu tố văn hóa truyền thống tích cực, sử dụng vào mục đích giữ nước, chỉ loại bỏ những yếu tố tiêu cực.
Đánh đổ sự kiềm kẹp và nạn đầu độc văn hóa thực dân của Pháp, nhưng cũng phải biết thu nhận những yếu tố tiến bộ. Cụ thể trước mắt là xoa chính sách văn hóa “nhồi sọ” Đờ Cu, soi sáng các tầng lớp trí thức, văn nhân, nghệ sĩ và quần chúng nhân dân; bắt tay vào xây dựng văn hóa mới phục vũ công cuộc giải phóng.
Hội văn hóa cưu quốc vừa ra đời đã thu hút được đông đảo văn nghệ sĩ. Lớp đầu tiên gia nhập: Học Phi, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Thép Mưới,…
Tổ chức: quản lí hoạt động hội là một ban chấp hành đứng đầu là 1 chủ tịch ( người đầu tiên là Học Phi). Hội trực tiếp nhận sự chỉ đạo của Đảng thông qua những cán bộ Đảng được cử xuống : Lê Quang Đạo, Trần Độ, Vũ Quốc Uy, Trần Quốc Hưng.
Khẩu hiệu: “ văn hóa khi đã xâm nhập vào đại chúng thì cũng tác động như một sức mạnh vật chất”
Cơ quan ngôn luận : báo Tiên Phong ( ban đầu có tên là Tiền Tuyến)
quyết định thành lập : ngày 11/6/1945, sau hội nghị của các hội viên và cán bộ Đảng bàn về việc vận dụng và thực hiện đề cương văn hóa của Đảng và phương hướng hoạt động của hội.
“ Tiên Phong ra đời nó mạnh bạo giữ lấy trách nhiệm
1.Kịch liệt chống những xu hướng văn hóa đầu cơ, xu nịnh, thoái hóa
2. Kiến thiết một nền văn hóa mới với mục đích phục sự độc lập tư do và hạnh phúc của dân tộc”[1]
Báo hoàn toàn có nội dung văn hóa:
Về đề cương văn hóa
Về nghiên cứu, nghị luận và biên khảo
Về sáng tác thi ca tiểu thuyết, kịch bản
Điểm sách báo
Các hoạt động chính của Hội
Hoạt động thường xuyên: xuất bản báo Tiên Phong, 2 kỳ một tháng , số 1 ra ngày 10/11/1945( đã ra 21 kỳ với 24 số, số cuối 24 ra ngày 1/12/1946, phải tạm ngưng vì kháng chiên toàn quốc bùng nổ). Báo đã cho đăng nhiều bài viết về Đề cương Văn Hóa, về việc vận dụng và thực hiện Đề cương Văn Hóa, về đời sống mới,…thông qua báo này và một số tờ báo tiến bộ khác, thành viên của hội tranh luận với những xu hương văn hóa phản động thân Nhật hoặc Pháp ( hội Khai Trị Tiến Đức, Nam Phong tạp chí,…)
Xuất bản sách của các hội viên : Ngọn Quốc Kỳ - Xuân Diệu, Một Nền Văn Hóa mới – Nguyễn Hải Đăng, Nguyễn Đình Thi, Văn Sĩ Xã Hội – Hải Triều,…
àNhờ những hoạt động thường xuyên này mà những chủ trương chính sách của Đảng về đời sống văn hóa mới nhanh chóng đi sâu vào đời sống quần chúng nhân dân.
Tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề ở Hà Nội và các vùng lân cận do các thành viên trong Ban chấp Hành diễn thuyết.
Hoạt động quốc tế: với tư cách là một tổ chức văn hóa của nước Việt Nam dân chủ công hòa, trình bày nhựng đường lối văn hóa, cách mạng Việt Nam àkêu gọi sự ủng hộ từ quốc tế cho sự nghiêp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
+ 21/10/1945 trao cho các nhà văn hóa Hoa Kỳ nhằm kêu gọi Hoa Kỳ công nhận độc lập của Việt Nam.
+ gửi điện văn cho các nhà văn, nhà báo Anh
+ gửi điện cho các nhà văn hóa thế giới
+gửi sách sang Hoa Kỳ
một số hoạt động khác:
+ tổ chức tuần lễ văn hóa: từ ngày 7 đến 14/10/1945à mua vũ khí ủng hộ Nam Bộ
+ tổ chức tuyên truyền cho tổng tuyển cử; cử 6 người tham gia ứng cử: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Xuân Diệu, Trần Huyền Trân, Nguyễn Đỗ Cung và Vũ Ngọc Phan .
+ tham gia cuộc vận động xây dựng “ Đời sông mới”
+ 30/1/1946 : tổ chức trung bày tranh tết
+ diễn kịch do các hội viên viết
Phạm vi hoạt động: ban đầu là ở các đô thị như Hà Nội và các vùng phụ cận, sau đó phát triển các tổ chức văn hóa cứu quốc ở địa phương
Liên đoàn văn hóa cứu quốc Savanakhet: 20/10/1945
Liên đoàn văn hóa cứu quốc Thừa Thiên 18/9/1945
Liên đoàn văn hóa cứu quốc Quảng Trị 28/9/1945
Liên đoàn văn hóa cứu quốc Hà Tĩnh 7/10/1945
Liên đoàn văn hóa cứu quốc Bình Định 19/10/1945
à Liên đoàn văn hóa cứu quốc Trung Bộ: tất cả các tổ chức văn hóa cứu quốc ở Miền Trung với cơ quan ngôn luận là báo Đại Chúng.
Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các hội viên cùng các cơ quan chính phủ chuyển lên Việt Bắc, hoặc rút vào hoạt động bí mật hoặc đi vào cuộc kháng chiến như là một nhà văn chiến sĩ. Đến tháng 2/1948, Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức, Hội văn hóa Cứu quốc đã hoàn thành xuất sắc vai trò lịch sử của mình và chuyển giao nhiệm vụ cho hậu thân là Hội Văn nghệ Việt Nam.