André Chieng, tác giả Bàn về THỰC TIỄN TRUNG HOA cùng với FRANOIS JULLIEN1, người Pháp gốc Hoa, sinh năm 1953 ở Marseille (Pháp). Tốt nghiệp Đại học Bách khoa, ông theo học kinh tế ở Đại học Quốc gia thống kê học và quản trị kinh tế và Học viện chính trị (Pháp). Năm 1978, A.Chieng về Trung Quốc giảng dạy đại học. Nhưng ngay sau đó (năm 1980), ông quay lại Pháp tham gia một tổ chức thương mại (sau này trở thành Hội đồng thương mại Âu Á), từ 1988, là chủ tịch Hội đồng này. Ông là một trí thức thực học đồng thời là một doanh nhân có danh tiếng quốc tế. Đi đi về về Trung Hoa - Pháp, từ 2001 ông về ở hẳn Bắc Kinh. A.Chieng được chứng kiến từ đầu chí cuối (từ 1978 đến nay) công cuộc Cải cách trong ba thập kỷ vừa qua đã tạo nên "thần tích kinh tế" Trung Hoa. Sự nghiên cứu thực tiễn Trung Hoa đương đại của A.Chieng có giá trị kiểm chứng đối với những tư tưởng mà Jullien phát hiện trong hoạt động lý thuyết.
Tác giả thấy những học giả phương Tây nghiên cứu Trung Hoa bằng những khái niệm phương Tây, do đó không trúng. Tác giả đi tìm những khái niệm - công cụ thích đáng và kết quả là đã tìm thấy chúng trong những công trình nghiên cứu Trung Hoa (đối sánh với Châu Âu) của F.Jullien.
Đây "là một cuộc đi dạo có bình luận thuyết minh trong lòng của Trung Hoa ngày nay, người đi dạo là một thương nhân Trung Hoa được giáo dục ở Pháp(...), cùng đi với anh ta là những bài viết của một triết gia Pháp, trở thành nhà Trung Quốc học để hiểu phương Tây hơn, cuộc đi dạo được kể lại trong tập biên khảo này"(2).
Trong công trình đặt ra nhiều vấn đề lịch sử, triết học quan trọng, những kiến giải của A.Chieng về những vấn đề này cuối cùng dẫn đến sự đối sánh việc thực hiện mô hình chung: kinh tế thị trường + dân chủ ở phương Tây, ở Nga (sau khi Liên Xô sụp đổ) và ở Trung Quốc hiện đại hóa, sự đối sánh này cho ta thấy Trung Quốc trên con đường cải cách một mặt ra sức học phương Tây về khoa học, công nghệ, về cách quản lý và điều hành hiện đại; mặt khác đem kết hợp với những phương thức tư duy, những nếp nghĩ bản sắc Trung Hoa, chính sự kết hợp này đã tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong ba thập kỷ qua.
Tính phổ quát của trí năng phương Tây thể hiện trong những thành tựu khoa học tự nhiên và công nghệ là điều hiển nhiên. Nhưng trong triết học, trong những lĩnh vực khoa học xã hội, đặc biệt là khoa học nhân văn, những phương thức tư duy, những nếp nghĩ của phương Tây phải chăng cũng có giá trị phổ quát như họ nghĩ? Phải chăng những luật, những chân lý họ đề ra trong những lĩnh vực này phải được xem là căn cứ tham chiếu duy nhất? F.Jullien đã đến với trí năng và văn hoá cổ Trung Hoa và từ chỗ "bên ngoài" này, từ những phương thức tư duy và nếp nghĩ mang bản sắc Trung Hoa mà ông lĩnh hội được, ông nhận thấy tham vọng đưa ra những chân lý phổ quát của phần lớn các học giả phương Tây là đáng ngờ. "Công việc lý thuyết được tiến hành ở đây - F.Jullien viết - nhằm trình bày rõ hơn hai truyền thống văn hóa vốn không biết đến nhau này - truyền thống Trung Hoa và truyền thống Hy Lạp - buộc tôi phải giải thể và làm lại những phạm trù của tư tưởng; tôi không thể bằng lòng với những khái niệm của khoa học nhân văn (Châu Âu) và đành phải vượt rào"(3). Kinh tế học là một ngành học hùng hậu của phương Tây. Trong công cuộc Cải cách ba thập kỷ vừa qua, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, chẳng hạn như vấn đề quản lý ngân hàng, vấn đề nông dân tràn vào thành phố..., những nhà lãnh đạo Trung Hoa đã đưa ra những đối sách và giải pháp kinh tế khác hẳn, thậm chí trái ngược với những bài bản có tính chất kinh điển của kinh tế học phương Tây. Có những nhà kinh tế học phương Tây tin rằng họ nắm được chân lý phổ quát về kinh tế học bèn lên tiếng bài bác, thậm chí với một thái độ giiễu cợt. Gordon Chang trong bài báo Sự sụp đổ sắp tới của Trung Hoa (công bố năm 2001) tiên đoán một cuộc khủng hoảng trầm trọng của Trung Quốc. Trên tờ Financial Times số ra ngày 14/9/2003, Moisys Naym đăng bài báo với nhan đề: "Chỉ có thần tích mới cứu được Trung Hoa". Trong bài xã luận đăng trên báo Wall Street châu Á (1/8/2003) Restall đặt câu hỏi: "Vì sao Trung Hoa là một con hổ giấy?” (4). Trên thực tế những giải pháp kinh tế của người Trung Hoa có hiệu quả tích cực to lớn. Trên cơ sở thực tiễn Trung Hoa, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, André Chieng cho thấy tính phổ quát của kinh tế học phương Tây là đáng ngờ, ông đã làm công việc mà F.Jullien đã làm trong một phạm vi rộng hơn, có liên quan đến phương thức tư duy phương Tây trong nhiều lĩnh vực nhân văn.
Khoa học nhân văn phương Tây có những thành tựu to lớn. Phần lớn những thành tựu này đã đi vào chương trình giảng dạy đại học, là một bộ phận quan trọng trong vốn học thuật các cán bộ lãnh đạo chính trị và quản lý kinh tế. Công trình của A.Chieng có thể giúp các sinh viên, nghiên cứu viên, các cán bộ chính trị và kinh tế:
- Tích cực học tập những phương thức tư duy, nếp nghĩ trong khoa học nhân văn phương Tây đồng thời có ý thức nghi ngờ tính phổ quát của chúng. - Có ý thức khai thác nguồn những phương thức tư duy Đông Á (trong đó có Việt Nam), đem kết hợp với trí năng phương Tây, vận dụng chúng một cách sáng tạo trong việc nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và những vấn đề lý thuyết được đặt ra từ đó.
Trên cơ sở những tìm tòi sâu sắc và sáng tạo của F.Jullien và A. Chieng, tôi nêu lên những phương thức tư duy, những nếp nghĩ đáng chú ý của Đông phương, đúng hơn của văn hóa khu vực Đông Á mà Trung Hoa là tiêu biểu.
Ban đầu vấn đề được đặt ra là vai trò của "văn hóa" trong “thần tích kinh tế Trung Hoa” trong ba thập kỷ vừa qua. A.Chieng cho rằng sau khi Trung Hoa tiếp nhận mô hình "kinh tế thị trường + dân chủ" thì nhân tố quyết định tạo ra thần tích kinh tế là văn hóa coi trọng sự biến hóa (culture de la transformation) của Trung Hoa, trong khi đó văn hóa của phương Tây là văn hóa coi trọng chân lý (culture de la verité), Nga (sau khi Liên Xô sụp đổ) cũng ở trong quỹ đạo của văn hóa sau (so sánh tình hình hiện tại của Nga và Trung quốc có thể hình dung được những tác động khác nhau của hai văn hóa nói trên). Thế nào là "coi trọng chân lý", là "coi trọng sự biến hóa" sẽ nói rõ hơn ở phần sau, đến đây cần thấy sự phân biệt hai văn hóa nói trên có tính chất hết sức ước lệ: nói rằng "coi trọng sự biến hóa" không có nghĩa là không quan tâm đến vấn đề chân lý, vấn đề là ở liều lượng, và trong liều lượng có những mức độ khác nhau: có biết đến vấn đề chân lý nhưng không chú ý lắm, có quan tâm đến chân lý nhưng ít nhiều vẫn bị lu mờ do sự đặc biệt quan tâm đến sự biến hóa. Nói đến tác động của văn hóa tới sự phát triển kinh tế, F. Jullien hiểu đây không phải là "một nước sơn véc-ni phủ lên văn xuôi của dịch vụ kinh doanh", cũng không phải là một lĩnh vực hoạt động của con người bên cạnh những lĩnh vực khác (kinh tế, chính trị, quân sự...), nó là những "phương thức tư duy (mode de pensée) bao trùm, phát tán, xuyên suốt mọi lĩnh vực, là thiên hướng chi phối cách suy nghĩ và cách xử lý trong mọi hoạt động của con người.
Như vậy trong quan niệm của F.Jullien cũng như của A.Chieng, cái gọi là "văn hóa" trước hết là những phương thức tư duy hoặc những hệ tư duy (système de pensée). Chính cái "văn hóa" này, cái "phương thức (hoặc hệ) tư duy” này phân biệt Trung Quốc và phương Tây. " Giữa Trung Quốc và phương Tây - A.Chieng viết - không phải là hai mô hình đối lập nhau, mà đây là hai hệ tư duy đối lập: văn hóa trọng chân lý (culture de la vérité) đối lập với văn hóa trọng sự biến hóa (culture de la transformation)" (5) (trong quan niệm của tác giả, xét một cách hết sức đại khái và ước lệ thì Trung Quốc (hiện nay) và phương Tây cùng chung một mô hình: kinh tế thị trường + dân chủ; nước ta cũng không ở ngoài mô hình này: kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là kinh tế thị trường). Nhận xét về cách các học giả phương Tây so sánh nước Nga hiện nay và Trung Quốc hiện nay, tác giả chỉ ra một sự nhầm lẫn lớn, họ nhấn mạnh sự đối lập về hệ tư tưởng: Nga từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, Trung Quốc giữ lại học thuyết này. Sự khác biệt cốt yếu giữa Nga và Trung Quốc chủ yếu là ở sự đối lập về văn hóa: nước Nga vẫn ở trong quỹ đạo văn hóa trọng chân lý của phương Tây, còn văn hóa của Trung Hoa, như chúng ta biết, coi trọng sự biến hóa.
Mon Nov 17, 2008 7:01 pm
Sử học , Sinh Học và Địa lý
Thành viên năng động
Thành Hưng
Họ & tên : Nguyễn Thành Hưng
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Cộng tác viên
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 09/11/2008
Tổng số bài gửi : 585
Đến từ : Thành phố Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : Sử học , Sinh Học và Địa lý
Điểm thành tích : 627
Được cám ơn : 108
Tiêu đề: Re: Thực tiễn Trung Hoa .
Thế nào là văn hóa coi trọng chân lý của phương Tây? Có nhiều cách hiểu.
Coi trọng chân lý trong khoa học tự nhiên và công nghệ là chung cho cả phương Tây và Trung Quốc. Từ thế kỷ 16, với sự hình thành của phương pháp thực nghiệm-toán học, đặc biệt từ Gallilée (1564 - 1642), nhà bác học đã khẳng định phương pháp này, ở Châu Âu, khoa học tự nhiên và kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, đến thế kỷ 19 thì phát triển ào ạt. Sau biến cố Chiến tranh nha phiến (1939), Trung Quốc mới tỉnh ngộ sự tụt hậu thảm hại của mình trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Từ đấy đến nay, trải qua những thể chế khác nhau, học tập và đuổi kịp phương Tây trong lĩnh vực này luôn luôn là mục tiêu hàng đầu của Trung Quốc.
Văn hóa coi trọng chân lý của phương Tây trước hết được đặt ra trong những lĩnh vực xã hội, nhân văn. Trong những lĩnh vực này (chủ yếu lĩnh vực nhân văn), bằng sự nghiền ngẫm học thuật, bằng những sự từng trải và chiêm nghiệm, người ta đề ra những quy luật, và một khi quy luật được một sự đồng thuận rộng rãi, nó trở thành chân lý; từ những quy luật được đề ra những giả thuyết và từ nhiều giả thuyết được xây dựng những lý thuyết. Từ những quy luật, những chân lý, những lý thuyết..., những người hoạt động thực tiễn đề ra những mô hình, những kế hoạch, dự án (ít nhiều có tính chất tư biện, mang tính ý niệm) và một khi được đề ra, được xác quyết, chúng trở thành những mục tiêu và hoạt động thực tiễn là thực hiện chúng, tức là đưa chúng vào thực tại, vào đời sống. Thực chất của việc đưa mô hình, kế hoạch, dự án, mục tiêu... vào thực tại là tạo ra những quá trình biến hóa trong thực tại. Văn hóa coi trọng biến hóa của Trung Quốc không coi nhẹ quy luật, chân lý, lý thuyết, mục tiêu... nhưng đặc biệt quan tâm đến biến hóa và quá trình, thực ra hai khái niệm này thường gắn với nhau, biến hóa là biến hóa của những quá trình, và quá trình nào cũng là quá trình biến hóa. Trong khi A.Chieng gọi văn hóa Trung Hoa là văn hóa coi trọng biến hóa thì F. Jullien nhận định : "Tôi thấy ý niệm quá trình là ý niệm xuyên suốt tư tưởng Trung Hoa...(H.N.H.tô đậm)" (6). Văn hóa biến hóa coi trọng "biến hóa" hơn "chân lý" có cái lý của nó. Trong các lĩnh vực xã hội nhân văn, những quy luật, chân lý, lý thuyết... có giá trị hết sức tương đối vì sự vận dụng chúng đụng đến thế giới những con người hành động theo chủ quan hết sức phức tạp của họ. Trong thế giới vật lý của Newton, "nếu như chúng ta có những thông tin chính xác về trạng thái ban đầu của một hệ thống vật lý bao gồm những vật thể vận động, chúng ta có thể tiên đoán một cách chính xác trạng thái của hệ thống này ở mọi thời điểm trong tương lai". Nhưng trong thế giới con người, cơ sở khoa học hiện tại của các ngành học thuật xã hội và nhân văn còn lâu mới cho phép nhân loại tiên đoán sự phát triển tương lai của xã hội với một sự chính xác khoa học giống như thiên văn học tiên đoán những nhật thực, nguyệt thực. Đặc biệt trong giới nghiên cứu chủ nghĩa Mác, không ít học giả và nhà hoạt động xã hội có ảo tưởng là nắm được cái cơ sở khoa học mà Mác đặt ra cho sự phát triển lịch sử thì có thể dự đoán và chi phối một cách chính xác sự phát triển của xã hội. Người Trung Hoa không phải là không có lý khi họ đặc biệt quan tâm đến sự biến hóa của những quá trình thực tại và từ thực tại này kiểm tra lại những quy luật, xác định lại những chân lý và rà soát lại những lý thuyết… Những quá trình biến hóa thực tại không bao giờ tuân theo sơ đồ của những chân lý (lý thuyết), những mô hình, những kế hoạch, những dự án được đặt thành mục tiêu. Quan tâm đến chân lý là quan tâm đến vấn đề đúng hay sai trong khi đó với văn hóa coi trọng sự biến hóa thì vấn đề số một là quá trình biến hóa bế tắc (bĩ) hay hanh thông. Nếu như theo sơ đồ chân lý (lý thuyết), tiến lên là chân lý, là đúng nhưng trong thực tế quá trình biến hóa lại bị bế tắc thì phải đổi hướng, rẽ sang phải vẫn bị bế tắc thì rẽ sang trái... và nếu như lùi lại mà hanh thông thì lùi lại là thuận với sự biến hóa. Văn hóa Trung Hoa không coi nhẹ chân lý (lý thuyết) nhưng tiêu chuẩn cao nhất vẫn là sự hanh thông (trong quá trình biến hóa), cũng có thể nói hanh thông là tiêu chuẩn thực tiễn của chân lý. Theo nhận định của tác giả "Đặng Tiểu Bình đã thành công trong công cuộc cải cách của ông vì ông tiến lên từng bước một, bảo đảm sao mỗi bước có được sự hanh thông"(7).
Phương Tây coi trọng chân lý (lý thuyết), Trung Hoa coi trọng sự biến hóa.
"Phương Tây coi trọng lý thuyết". "Trung Hoa coi trọng Đạo"(8), Đạo là Con đường của sự Biến hóa. Do coi trọng chân lý lý thuyết, nên văn hóa phương Tây là văn hóa tranh cãi. Nhiều chuyên mục trong những chương trình truyền hình Pháp chẳng hạn là những cuộc tranh cãi vô tận. Văn hóa Trung Hoa cổ dè dặt hơn với sự tranh cãi. Vì sao? Sau đây là một đoạn trong chương Tề vật luận của Nam Hoa kinh: "Giả sử tôi tranh biện với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không? Nếu tôi thắng anh thì có nhất định là tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta có một người phải, một người trái? Hay là cả hai chúng ta đều phải cả hoặc đều trái cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây?..." (9). Như vậy, không phải vì người ta không thích bàn cho ra phải trái, đúng sai mà người ta thấy trong lĩnh vực xã hội, nhân văn, nhìn cho ra sự thật, phải trái là rất khó, hơn nữa, nhìn cho ra cũng là để giải quyết những vấn đề, những mâu thuẫn trong cuộc sống, cho nên tốt hơn hết là chuyện phải trái bàn vừa thôi, nó chỉ là một khâu có liên quan đến những khâu khác, hãy tập trung vào việc tìm giải pháp thỏa đáng cho từng vấn đề cụ thể, thay cho sự cãi vã là sự thương lượng đi đến sự phân xử thỏa đáng. Triết học (phương Tây) trọng chân lý [vérité] (tức là bàn cho ra phải trái, đúng sai). Minh triết (phương Đông) trọng sự thỏa đáng [congruence] (đúng sai cũng quan trọng nhưng không quan trọng lắm, miễn là thỏa đáng) (10). " Họ (người Trung Hoa) quan tâm đến hiệu quả mà những sự thương lượng đem lại, coi trọng hiệu quả này hơn những gì mà sự tìm tòi chân lý dẫn đến"(11).
Ở trên có nói đến sự khác biệt: phương Tây coi trọng Chân lý, Trung Hoa coi trọng Đạo. Thực ra trong văn hóa phương Tây cũng có Đạo, nhưng Đạo của phương Tây bao giờ cũng dẫn đến một mục đích cuối cùng: Thượng Đế, Chân lý (tuyệt đối), Cứu rỗi... Đạo của văn hóa Trung Hoa "không cần đến tính mục đích, hay đúng hơn dửng dưng với tính mục đích", nếu như đạo có chăng một cứu cánh, thì " không thể có cứu cánh nào khác là sự đổi mới ở chính nó"(12). Nói tóm lại Đạo là con đường không hướng về mục đích nào cả - chẳng qua những con người tội nghiệp phóng chiếu mục đích của họ lên nó - mà qua nó sự biến hóa đi từ "hanh thông" này đến "hanh thông" khác, từ “biến thông” này đến “biến thông” khác, từ "khai thông này đến khai thông khác"...( biến thông là một khái niệm cơ bản của Kinh Dịch).
Đạo là Con đường Biến hóa. Đạo không hướng về một mục đích nào cả. Trong công cuộc cải cách của Trung Quốc, theo A.Chieng, "cách tiến hành sự tạo ra biến hóa(...) quan trọng hơn mục đích cuối cùng, nếu quả như có một mục đích như vậy"(13). Tác giả tỏ ra nghi ngờ cách làm việc cứ đề ra "mục tiêu này, mục tiêu nọ", "tổng lộ tuyến này, tổng lộ tuyến nọ" khi nhận định rằng : "Bằng cách tổ hợp những tập hợp cải cách lớn, cải cách nhỏ, Trung Quốc chẳng cần đề ra mục tiêu, mục đích, thực sự đã đi rất nhanh và xa, xa hơn và nhanh hơn bất cứ lời tiên đoán nào được đưa ra năm 1980"(14). Tác giả nghi ngờ luôn một nếp suy nghĩ, một nếp làm việc được hình thành trong khuôn khổ trí thức của phương Tây: "nhất thiết phải định nghĩa mục tiêu, cứu cánh (H.N.H.tô đậm)" (15). Đề ra những mục đích, mục tiêu không phải là khó; điều quan trọng là thực hiện, đưa chúng vào thực tại, vào đời sống bằng hoạt động thực tiễn, bằng hành động và tạo ra biến hóa, chính trong hoạt động thực tiễn, những mục đích được điều chỉnh, được xem xét lại, kể cả vứt đi. Mục tiêu là quan trọng nhưng quan trọng hơn là đưa mục tiêu vào thực tại đời sống bằng hoạt động thực tiễn. Cũng vậy, theo A.Chieng, "sự tôn trọng những nguyên lý chưa đủ, còn phải xem người ta vận dụng chúng như thế nào"(16). Những nguyên lý thuộc phạm vi lý thuyết, vận dụng chúng thuộc phạm vi hoạt động thực tiễn. Việc vận dụng một cách tàn bạo những nguyên lý của một mô hình mới (và cấp tiến) có thể dẫn đến những hậu quả tai hại. "Bốn hiện đại hóa" của Đặng Tiểu Bình đã trở thành mục tiêu lớn, những nguyên lý lớn của Cải cách Trung Hoa đương đại. Nhưng nói đến thành công lớn lao của Cải cách hiện đại hóa Trung Hoa trước hết phải nói đến phương pháp cải cách Trung Hoa đã được Đặng Tiểu Bình trình bày một cách rất Trung Hoa (vừa dễ hiểu, vừa sâu sắc): "Phải mò mẫm những viên đá để qua sông"(17). Mục đích thực sự của cải cách không phải là đề ra những mục tiêu mà là tạo ra những quá trình biến hóa thực tại. Những quá trình này không bao giờ tuân theo những sơ đồ của lý thuyết hoặc mô hình. Do đó có khi phải "mò mẫm" từng bước một, đây là minh triết Trung Hoa. Vả chăng “mò mẫm những viên đá” còn có ý nghĩa ở bình diện nhận thức luận, đó là thao tác tiếp nhận sự phản hồi từ những quá trình thực tại (phản hồi [feed back] là một khái niệm cơ bản của lý thuyết thông tin và rất được coi trọng trong lề lối làm việc Mỹ). "Tiến hành sự biến hóa quan trọng hơn là mục đích cuối cùng..." (18), coi trọng sự "vận dụng nguyên lý" hơn cả bản thân nguyên lý..., từ những quan điểm này có thể nói đến "tinh thần thực dụng" trong văn hóa Trung Hoa. Để hiểu sâu sắc "tinh thần thực dụng" này, theo ý riêng của tôi, không thể bỏ qua chủ nghĩa thực dụng Mỹ - cơ sở triết học của "tinh thần thực dụng Mỹ" mà Lênin đánh giá rất cao ("phải kết hợp tinh thần cách mạng Nga và tinh thần thực dụng Mỹ...”). Theo quan điểm của chủ nghĩa thực dụng Mỹ - mà những đại diện xuất sắc là C.S.Pierce (1839-1914), William James (1842-1910), J.Dewey (1859-1952) – những tư tưởng và lý thuyết phải được thử nghiệm trong thực tiễn, phải được đánh giá ở chỗ hành động theo tư tưởng này hay lý thuyết nọ có đem lại kết quả mong muốn không, tất cả những gì được xem là chân lý, là khoa học, là đạo đức và chính trị công minh đều phải được thử nghiệm theo cách này; triết thuyết này nhấn mạnh chức năng thực tiễn của tri thức như là một công cụ để thích ứng với thực tại và kiểm soát nó, ý nghĩa của một quan điểm hay nguyên lý là ở những hiệu quả thực tiễn mà sự vận dụng nó đem lại: “biết, đó là làm”, “biết là một hoạt động thực tiễn”; triết thuyết này ngoảnh lưng với trừu tượng, những giải pháp nói suông, những nguyên lý cứng nhắc, những hệ thống khép kín và những giá trị tuyệt đối..., nó hướng về tính cụ thể, sự đâu ra đấy, về những sự kiện và hoạt động..., nó là "sự tóm lược của lòng tin Mỹ ở năng lực "biết làm" (know how), năng lực hoạt động thực tiễn và lòng ngờ vực cũng rất Mỹ đối với những lý thuyết và hệ tư tưởng trừu tượng".
Mon Nov 17, 2008 7:09 pm
Sử học , Sinh Học và Địa lý
Thành viên năng động
Thành Hưng
Họ & tên : Nguyễn Thành Hưng
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Cộng tác viên
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 09/11/2008
Tổng số bài gửi : 585
Đến từ : Thành phố Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : Sử học , Sinh Học và Địa lý
Điểm thành tích : 627
Được cám ơn : 108
Tiêu đề: Re: Thực tiễn Trung Hoa .
Có liên quan đến ý niệm thế được phân tích ở trên là ý niệm mặc hóa (biến hóa lặng lẽ). Trong quan niệm của F. Jullien, hành động (action) đối lập với làm biến hóa (transformation). Phương Tây coi trọng anh hùng (héros) tạo thời thế bằng hành động; Trung Hoa đề cao nhà hiền triết (le Sage) cái thế bằng cách làm biến hóa. Hành động diễn ra trong một thời điểm nhất định, tác động vào một điểm, một chỗ được khu biệt rõ rệt, gắn với một chủ thể xác định (chủ thể hành động thường là một anh hùng hoặc một gian hùng), thông thường hành động gây ra biến cố (événement), mà biến cố thì bao giờ cũng "rôm rả", "náo động", "om sòm", do đó hành động thường nổi bật, tách bạch dòng đời và tiến trình biến hóa trầm lặng của sự vật. Còn làm biến hóa, ngược lại với hành động, thì gây ra sự liên tục tăng tiến, sự lan tỏa bao trùm tổng thể (global), sự hòa lẩn vào tiến trình của sự vật, do đó khó thấy, không gây biến cố om sòm, do đó lặng lẽ, nhưng cuối cùng có hiệu quả rõ rệt, không chối cãi được (tuổi già là một ví dụ của sự biến hóa). Lão Tử có nói đến những ông vua được "dân yêu quí và khen", nhưng trên tài họ là những ông vua trị dân mà "dân không biết là có vua", "vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: Tự nhiên được như vậy" (xem Đạo đức kinh, Chương 17) (26). Đây là những ông vua trị dân bằng cách làm "biến hóa lặng lẽ". Họ không nổi lên như những anh hùng nhưng Lão Tử lại tôn họ vào hàng "thái thượng".
"...Tôi nghĩ rằng – F.Jullien viết – hai ý niệm này, lấy của những nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại, cũng có thể giúp tìm hiểu Trung Hoa đương đại. Bởi lẽ chính Trung Quốc hiện nay dường như không có phóng chiếu một kế hoạch nào đó lên tương lai, không có theo đuổi một cứu cánh nào đó hoặc một ý đồ đế quốc nào đó, mà ngày này qua ngày nọ ra sức khai thác tiềm thế của mình, có nghĩa là ra sức lợi dụng những nhân tố thuận lợi – không kể thuộc lĩnh vực nào: kinh tế, chính trị, quốc tế và bất kể thời cơ nào - tất cả nhằm tăng cường thế lực và nâng cao địa vị trong các quốc gia. Chỉ đến bây giờ chúng ta, phần nào sửng sốt, mới bắt đầu nhận ra những kết quả: trong vài thập kỷ, Trung Hoa đã trở thành xí nghiệp lớn nhất thế giới và trong nhiều thập kỷ nữa, tiềm lực đương nhiên sẽ ngày càng tăng trưởng. Và quá trình diễn ra, không có biến cố lớn gây tan hoang. Đặng Tiểu Bình, "người cầm lái nhỏ bé" chính là con người vĩ đại – bằng tự do hóa và trấn áp luân phiên - lặng lẽ làm biến hóa xã hội Trung Quốc, từ thể chế xã hội chủ nghĩa sang thể chế siêu tư bản chủ nghĩa mà chẳng có bao giờ tuyên bố một sự cắt đứt dứt khoát giữa hai thể chế... Hẵng cứ xem cách người Trung Hoa nhập cư vào Pháp: nó lan ra từ khu phố này đến khu phố nọ, mỗi người mới đến nghĩ ngay đến việc kéo bà con họ hàng mình sang, kéo từng người một và lần lần kéo hết; những lễ hội Trung Hoa năm này sang năm khác ngày càng nổi lên đáng kể và vân vân, vân vân...; nhưng sự chuyển tiếp quá liên tục đến nỗi người ta không nhận ra và do đó chẳng có căn cứ nào để mà ngăn chặn. Tóm lại, sự biến hóa này lần lần tăng tiến, quá lặng lẽ, hòa hẳn vào "tiến trình của sự vật” thành ra người ta không thấy nó. Thế rồi, bỗng dưng một hôm người ta nhận ra rằng, trong khu phố, tất cả các cửa hàng đều là Tầu..." (27) Trong tập chuyên luận của A.Chieng, tìm hiểu những nguyên nhân tư tưởng tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong ba thập kỷ qua, từ chương này sang chương khác, tác giả nhấn mạnh những nét đặc sắc của văn hóa Trung Hoa: "coi trọng sự biến hóa”, coi trọng tinh thần thực dụng, coi trọng sự điều tiết quá trình thực tại hơn là sự phát lộ chân lý (lý thuyết), coi trọng sự thương lượng thoả đáng hơn là tranh cãi đúng sai, coi trọng cách vận dụng nguyên lý hơn là bản thân nguyên lý, coi trọng quá trình biến hóa hơn là mục đích (cuối cùng)… Đến phần lời Bạt, chia sẻ sự nhấn mạnh của A.Chieng, F.Jullien đưa ra một cách nhìn tổng quát: Trung Hoa "đi bằng hai chân" - văn minh Phương Tây và văn minh Trung Hoa, trong y thuật và nghệ thuật ẩm thực của họ, "Đông" và "Tây", "trong" và "ngoài" tồn tại song song và đan xen vào nhau, họ làm chủ những thể thức quản lý phương Tây nhưng không coi nhẹ những mưu lược hiệu quả truyền thống, về mặt ngoại giao họ biết cách ứng xử trăm phần trăm phương Tây nhưng vẫn nhớ đến nguồn chiêu pháp ứng xử riêng của họ... Dĩ nhiên "coi trọng sự biến hoá" họ không hề coi nhẹ "chân lý", họ không thể không nhớ rằng trong mọi lịch sử tư tưởng không ít những trang oanh liệt được viết ra bởi cảm hứng tìm tòi, đấu tranh cho chân lý, cảm hứng "tìm cho ra sự thật" và "nói toàn bộ sự thật"...
Viết công trình "Bàn về Thực tiễn Trung Hoa cùng với Francois Jullien", André Chieng có tham vọng gì? Tham vọng chính trị? Tham vọng học thuật? Hãy xem lời trần tình của tác giả ở đoạn cuối bài Tựa: "Độc giả cũng đừng tìm trong cuốn sách này những điều xác thực, mà trái lại hẵng tìm ở đây một sự tự do. Hẵng đọc nó như người ta chơi cái trò chơi Trung Hoa được gọi là tangram(28): ban đầu đây là một hình vuông mà người ta cắt ra thành bẩy miếng hình học: tam giác, quả trám, vuông. Người ta có thể xáo trộn bẩy miếng này rồi cấu thành lại hình vuông ban đầu, nhưng người ta cũng có thể tổ hợp chúng thành nhiều hình dạng giống những con người, những con vật hoặc đồ vật. Chẳng ai lại có thể ép buộc người chơi cứ làm lại hoài cái hình vuông ban đầu lấy cớ rằng dường như chỉ nó mới là chân lý"(29).
Chú thích: 1, 2, 5-8, 11-18, 20, 21, 23-25, 27-29 André Chieng, La pratique de la Chine en compagnie de F. Jullien, Grasset, 2006
3 Colloque F.Jullien, Sang Viễn Đông trở về Viễn Tây, Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr.10
4 Chine/Europe... sous la direction de Pierre Chartier et Thiery Marchaissse, PUK, 2002, tr.130
9 Nguyễn Hiến Lê, Trang Tử: Nam Hoa kinh, Nxb. Văn hóa, 1994, tr.173 10, 19 F.Jullien, Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr.167
22 Trung dung (chương 3), Chu Hy, Tứ thư tạp chú, Nxb Văn hóa thông tin, 1999, tr.105
26 Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử: Đạo đức kinh, Nxb. Văn hóa, 1994, tr.189-190
28 Ở Việt Nam được gọi là trò chơi Trí Uẩn Hoàng Ngọc Hiến Tạp chí Tia Sáng