Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật sau Thế chiến thứ hai (1945)
Mon Oct 20, 2008 6:29 pm
SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
CỐ VẤN CHUYÊN MÔN
ChauTienLoc
Họ & tên : CHÂU TIẾN LỘC
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Sáng lập viên, Cựu Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ (từ tháng 06/2008 đến 01/2011)
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 823
Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
Điểm thành tích : 1969
Được cám ơn : 665
Tiêu đề: Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật sau Thế chiến thứ hai (1945)
Đến nay, nhân loại đã trải qua hai cuộc cách mạng lớn trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, qua đó đạt được những bước nhẩy vọt trong sản xuất và sinh hoạt xã hội: cuộc cách mạng kỹ thuật và cách mạng công nghiệp gắn liền với nó ở thế kỉ XVIII – XIX, và cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang diễn ra từ những năm 40 đến nay. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay không phải là cuộc cách mạng kỹ thuật đơn thuần như thế kỉ XVIII, mà là sự kết hợp chặt chẽ cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật thành một thể thống nhất, hai yếu tố khoa học và kỹ thuật không tách rời nhau, kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo ra một sức mạnh tổng hợp thúc đẩy cách mạng khoa học – kỹ thuật cùng phát triển với tốc độ nhanh chóng, quy mô rộng lớn và được những thành tựu kì diệu chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Đến nay, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn đầu từ những năm 40 đến nửa đầu những năm 70, giai đoạn thứ hai bắt đầu từ cuộc khủng hoảng năng lượng to lớn năm 1973 đến nay, trong đó cách mạng công nghệ được nâng lên vị trí hàng đầu (cũng có ý kiến cho là cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ ba).
1. Nguồn gốc của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai
Con người phải lao động, phải sản xuất ra của cải để tồn tại và phát triển. Muốn sản xuất ra nhiều của cải nếu chỉ đơn thuần dựa vào bản thân sức lao động của con người thì không đủ, mà phải tìm cách không ngừng cải tiến, hoàn thiện những phương tiện sản xuất như công cụ, máy móc, vật liệu v.v… mà thường gọi chung là kỹ thuật. Kỹ thuật càng tiến bộ thì sản xuất càng phát triển và sinh hoạt của con người ngày càng được nâng cao hơn. Mặt khác, kỹ thuật muốn tiến bộ thì phải dựa vào sự phát triển của khoa học cơ bản, gồm toán học, vật lý học, hoá học, sinh vật học. Như thế, yêu cầu của cuộc sống con người, cụ thể là yêu cầu của kỹ thuật và của sản xuất, nó trở thành động lực và nguồn gốc sâu xa dẫn tới cuộc cách mạng công nghiệp vào thế kỉ XVIII – XIX và cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật ngày nay. Bước sang nền sản xuất hiện đại, do sự bùng nổ về dân số và nhu cầu sinh hoạt của con người ngày càng nâng cao, càng phức tạp, mặt khác do những tài nguyên thiên nhiên cung cấp cho sự sống của con người đang vơi cạn dần một cách nghiêm trọng, vì vậy, những công cụ sản xuất mới có kỹ thuật cao, những nguồn năng lượng mới và những vật liệu mới thay thế được đặt ra một cách bức thiết với con người.
Để phục vụ cho việc tiến hành cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, các bên tham chiến đều buộc phải nghĩ tới việc giải quyết tính cơ động của binh sĩ, các phương tiện thông tin, liên lạc và chỉ huy, sản xuất ra những vũ khí hiện đại có tính năng tàn phá và sát thương lớn v.v… Cũng vì thế, cả hai phía tham chiến phải đi sâu vào nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay được mở đầu bằng những phát minh rađa, hoả tiễn, bom nguyên tử… vào nửa đầu những năm 40 nhằm phục vụ cho chiến tranh.
Những thành tựu về khoa học, kỹ thuật cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai của nhân loại.
Mon Oct 20, 2008 6:30 pm
SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
CỐ VẤN CHUYÊN MÔN
ChauTienLoc
Họ & tên : CHÂU TIẾN LỘC
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Sáng lập viên, Cựu Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ (từ tháng 06/2008 đến 01/2011)
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 823
Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
Điểm thành tích : 1969
Được cám ơn : 665
Tiêu đề: Trang 2
2. Nội dung và thành tựu
Nội dung và phạm vi của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay rất phong phú, rộng lớn. Nó diễn ra trong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm toán học, vật lí học, hoá học, sinh vật học. Khoa học cơ bản đã tạo cơ sở lí thuyết cho các khoa học khác, cho kỹ thuật phát triển và là nền móng của tri thức. Ngoài khoa học cơ bản ra, cuộc cách mạng khoa học – kinh tế đã và đang nghiên cứu, phát minh ra nhiều ngành khoa học mới, như khoa học vũ trụ và khoa học du hành vũ trụ, những ngành mới, như điều khiển học v.v… Hiện nay, các nhà khoa học đang tập trung đi sâu nghiên cứu, giải quyết những yêu cầu bức thiết nhằm đáp ứng cuộc sống của con người trên các phương hướng sau đây: phương hướng tự động hoá nhằm tự động hoá và thay đổi cơ bản những điều kiện lao động của con người và nâng cao năng suất lao động; tìm tòi những nguồn năng lượng mới, những vật liệu mới, những công cụ mới; cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp; chinh phục vũ trụ để phục vụ cho cuộc sống trên Trái đất…
Trải qua một nửa thế kỉ, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai của nhân loại đã thu được những thành tựu to lớn và kì diệu.
Trước hết, trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được những thành tựu hết sức to lớn, đánh dấu những bước nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử ở các ngành toán học, vật lí học, hóa học, sinh vật học. Các nhà khoa học đã có những phát minh vô cùng quan trọng, như sóng điện từ, trường điện từ, tia rơnghen và hiện tượng phóng xạ, sự phân chia của nguyên tử, bản chất hạt sóng của ánh sáng, khởi thảo thuyết lượng tử và thuyết tương đối học, tìm ra những định luật và định lí mới về toán học, lí học, hoá học và sinh vật học v.v…
Toán học đã có nhiều phát minh lớn, phát triển thành nhiều ngành riêng biệt, đang ngày càng thâm nhập sâu vào các ngành khoa học khác và tạo thành quá trình toán học hoá khoa học (trong lĩnh vực vật lí học, hoá học, sinh vật học, thậm chí ngôn ngữ học, sử học, khoa học kinh tế v.v… cũng đang được toán học hoá).
Hoá học đã có những thành tựu to lớn, đang tạo ra một sức mạnh tổng hợp tác động vào kỹ thuật và sản xuất, mở ra những phương pháp hoàn toàn mới để sản xuất ra những “vật liệu hoá học” mà những vật liệu này có nhiều mặt ưu việt hơn so với vật liệu tự nhiên và đặc biệt nó sẽ thay thế các vật liệu tự nhiên đang cạn kiệt dần.
Với những phát minh lớn về lí thuyết hạt nhân, về sóng điện từ, trường điện từ, hiện tượng phóng xạ…, vật lí học đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất ra những công cụ mới, vật liệu mới, nguồn năng lượng nguyên tử và những phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc hết sức hiện đại.
Cuộc cách mạng trong sinh vật học đã dẫn đến cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp và sự ra đời của Phỏng sinh học và công nghệ sinh học, bao gồm công nghệ sinh hoá, y và dược sinh hoá, công nghệ sinh vật chế biến thực phẩm, công nghệ sinh học chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường.
Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay là cuộc cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với nhau, hầu như tất cả những khuynh hướng chủ yếu của khoa học cơ bản hiện nay đều gắn liền với lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của kỹ thuật và sản xuất như khoa vật lí hạt nhân và năng lượng nguyên tử, môn điều khiển học và tự động học, môn phỏng sinh học v.v…
Thứ hai, các nhà khoa học đã có những phát minh lớn về những công cụ sản xuất mới, trong đó có ý nghĩa to lớn nhất là sự ra đời của máy tính, máy tự động và hệ thống máy tự động.
Con người thông minh nhất trong 1 phút cũng chỉ giải được một số phép tính, nhưng ngày nay, với máy tính hệ hiện đại nhất, con người có thể giải được hàng chục triệu phép tính trong một giây. Máy tính làm thơ, máy tính sáng tác nhạc, máy tính xem số tử vi v.v… Ngày nay, máy tính được coi như “trung tâm thần kinh” kỹ thuật, thay con người nắm toàn bộ quá trình sản xuất liên tục, kể cả chức năng điều khiển. Máy tự động và hệ thống máy tự động, sau khi máy tính ra đời, dẫn tới tự động hoá quá trình sản xuất, nghĩa là máy tự động không chỉ “làm việc” thay con người, mà còn có thể “nghĩ” và “giải quyết” công việc thay con người.
Các nhà khoa học còn sáng chế ra “người máy” (rôbôt) và ngày nay rôbôt đã đảm nhiệm những công việc mà con người không thể làm được hoặc không nên làm: rôbôt trèo tường, lau cửa sổ ở những toà nhà cao trọc trời, rôbôt lặn sâu xuống đại dương tới 6 – 7 nghìn mét, rôbôt làm việc trong các nhà máy điện nguyên tử ở những bộ phận dễ bị nhiễm xạ…
Ngoài ra, người ta còn sáng chế ra hàng loạt những công cụ mới có tính năng hết sức hiện đại nhằm phục vụ cho sản xuất trong tất cả các ngành công nghiệp và xây dựng.
Thứ ba, trong tình hình nguồn năng lượng thiên nhiên (than, dầu mỏ…) đang vơi cạn dần và trở nên khan hiếm một cách đáng lo ngại (sinh hoạt của con người càng nâng cao thì nhu cầu năng lượng càng tăng lên với một nhịp độ đáng sợ. Chỉ mười năm trở lại đây, nhu cầu năng lượng trên thế giới đã tăng hơn 2 lần, trong đó tiêu thụ năng lượng điện tăng hơn 3,6 lần) thì con người đã tìm ra những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú, vô tận: năng lượng nguyên tử, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng mặt trời, năng lượng thuỷ triều… Trong những nguồn năng lượng kể trên, năng lượng nguyên tử và năng lượng mặt trời đang dần dần được con người sử dụng một cách phổ biến, và trong một tương lai không xa, nó sẽ thay thế dần ngành nhiệt điện và thuỷ điện.
Thứ tư, sáng chế ra những vật liệu mới trong tình hình vật liệu tự nhiên đang cạn kiệt dần trong thiên nhiên.
Từ rong biển, người ta có thể chế tạo ra khoảng 40 loại công nghệ phẩm tiêu dùng hàng ngày. Đã có thể sản xuất ra những thực phẩm, như thịt gà, thịt lợn, thịt bò và nhiều thức ăn hàng ngày một cách hoàn toàn nhân tạo. Con người hiện nay mặc quần áo phần lớn bằng vải sợi nhân tạo.
Trong những vật liệu mới mà con người sáng chế ra những năm gần đây, chất pôlome (chất dẻo) đang giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày, cũng như trong tất cả mọi ngành công nghiệp. Có nhiều chất dẻo nhẹ hơn nhôm 2 lần, nhưng về độ bền chúng lại hơn hẳn nhiều loại thép và có thể sử dụng để chế tạo vỏ xe tăng, máy bay, các động cơ tên lửa và con tàu vũ trụ.
Thứ năm, là cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp. Do tác động tổng hợp của các ngành khoa học, đặc biệt là sinh vật học và hoá học, nông nghiệp đang tiến những bước nhẩy vọt nhờ cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá với những biện pháp lai tạo giống, chống sâu bệnh v.v… Nhờ cuộc “cách mạng xanh” này, con người đã tìm ra phương hướng để có thể khắc phục được nạn đói ăn, thiếu thực phẩm kéo dài từ bao thế kỉ.
Thứ sáu, con người đã đạt được những tiến bộ thần kì trong các lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Trên không, đã xuất hiện những máy bay hành khách siêu âm khổng lồ (“TU – 186”, “Côngcoocđơ”, “Bôing 176” v.v…). Các tàu hoả ngày nay đã đạt tốc độ chạy nhanh tới 300 km/giờ và tới đích đúng giờ tuyệt đối. Trên mặt biển, con người đã đóng những con tàu chở dầu 1 triệu tấn v.v… Nhờ các hệ thống vệ tinh nhân tạo, loài người đã có những phương tiện thông tin liên lạc và phát sóng truyền hình hết sức hiện đại.
Ngoài ra, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay còn đem lại cho con người một thành tựu diệu kì – thành tựu chinh phục vũ trụ.
Ngày nay, con người đã đưa được người lên thám hiểm Mặt trăng, phóng những con tàu vũ trụ, những tàu con thoi bay nhiều ngày vòng quanh Trái đất, nhận được những tin tức của Sao Kim, Sao Hoả. Khoa học vũ trụ và du hành vũ trụ đã và đang phục vụ đắc lực trên nhiền phương diện cho cuộc sống của con người trên Trái đất.
3. Vị trí và ý nghĩa
Trong nửa thế kỉ qua, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã có một vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Thứ nhất, những thành tựu kì diệu của cách mạng khoa học – kỹ thuật đã làm thay đổi một cách cơ bản các nhân tố sản xuất như công cụ và công nghệ, nguyên liệu, năng lượng, thông tin, vận tải…, trong đó sự thay đổi về công cụ và công nghệ có ý nghĩa then chốt. Cũng nhờ đó, con người đã tạo ra được những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn những lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia cộng lại.
Chỉ trong 20 năm (1970 – 1990), sản xuất của thế giới năm 1990 đã tăng gấp hơn hai lần so với năm 1970, ngang với 2000 lần khối lượng của cải vật chất sản xuất ra trong 230 năm của thời đại công nghiệp (tức từ năm 1740 đến năm 1970). Với đà này, trong vài ba thập niên tới, sản xuất vật chất trên thế giới sẽ tăng lên với tốc độ và khối lượng chưa từng có.
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã và đang đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới, sau nền văn minh nông nghiệp đến nền văn minh công nghiệp, rồi nền văn minh mới hiện nay đang được gọi dưới những tên khác nhau như “văn minh hậu công nghiệp”, “văn minh truyền tin”, “văn minh trí tuệ”… Nhân loại đang thực sự bước vào một nền văn minh mới mà con người có thể phát triển hơn nữa sự sáng tạo trong lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tiến lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.
Thứ ba, cách mạng khoa học – kỹ thuật với những thành tựu to lớn của nó đã khiến cho nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá cao, đang hình thành một thị trường toàn thế giới bao gồm tất cả các nước có chế độ xã hội khác nhau vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau trong cùng tồn tại hoà bình. Mặt khác, sự giao lưu, trao đổi về văn hoá, du lịch, văn học nghệ thuật , sự hợp tác với nhau trên các lĩnh vực y tế, dân số, giáo dục, khoa học – kỹ thuật giữa các quốc gia các dân tộc trên hành tinh ngày càng phát triển và ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn.
Thứ tư, bên cạnh những thành tựu kì diệu đưa con người tiến những bước nhảy vọt, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay đã và đang gây nên những hậu quả tiêu cực mà hiện nay con người vẫn chưa thể khắc phục được: việc chế tạo ra những vũ khí huỷ diệt (bom nguyên tử, bom hoá học, vũ khi vi trùng, máy bay tàng hình, tên lửa vượt đại châu…) nhằm sát hại con người và nạn ô nhiễm môi sinh, những bệnh tật, tai nạn lao động, tai nạn giao thông do tiến bộ khoa học – kỹ thuật mang lại.
Sun Nov 14, 2010 6:58 pm
Thành viên mới gia nhập
le nu thanh quy
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia : 14/11/2010
Tổng số bài gửi : 2
Điểm thành tích : 2
Được cám ơn : 0
Tiêu đề: Re: Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật sau Thế chiến thứ hai (1945)
,oplp[
Sun Nov 14, 2010 7:10 pm
Thành viên mới gia nhập
le nu thanh quy
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia : 14/11/2010
Tổng số bài gửi : 2
Điểm thành tích : 2
Được cám ơn : 0
Tiêu đề: Re: Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật sau Thế chiến thứ hai (1945)
ChauTienLoc đã viết:
2. Nội dung và thành tựu
Nội dung và phạm vi của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay rất phong phú, rộng lớn. Nó diễn ra trong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm toán học, vật lí học, hoá học, sinh vật học. Khoa học cơ bản đã tạo cơ sở lí thuyết cho các khoa học khác, cho kỹ thuật phát triển và là nền móng của tri thức. Ngoài khoa học cơ bản ra, cuộc cách mạng khoa học – kinh tế đã và đang nghiên cứu, phát minh ra nhiều ngành khoa học mới, như khoa học vũ trụ và khoa học du hành vũ trụ, những ngành mới, như điều khiển học v.v… Hiện nay, các nhà khoa học đang tập trung đi sâu nghiên cứu, giải quyết những yêu cầu bức thiết nhằm đáp ứng cuộc sống của con người trên các phương hướng sau đây: phương hướng tự động hoá nhằm tự động hoá và thay đổi cơ bản những điều kiện lao động của con người và nâng cao năng suất lao động; tìm tòi những nguồn năng lượng mới, những vật liệu mới, những công cụ mới; cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp; chinh phục vũ trụ để phục vụ cho cuộc sống trên Trái đất…
Trải qua một nửa thế kỉ, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai của nhân loại đã thu được những thành tựu to lớn và kì diệu.
Trước hết, trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được những thành tựu hết sức to lớn, đánh dấu những bước nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử ở các ngành toán học, vật lí học, hóa học, sinh vật học. Các nhà khoa học đã có những phát minh vô cùng quan trọng, như sóng điện từ, trường điện từ, tia rơnghen và hiện tượng phóng xạ, sự phân chia của nguyên tử, bản chất hạt sóng của ánh sáng, khởi thảo thuyết lượng tử và thuyết tương đối học, tìm ra những định luật và định lí mới về toán học, lí học, hoá học và sinh vật học v.v…
Toán học đã có nhiều phát minh lớn, phát triển thành nhiều ngành riêng biệt, đang ngày càng thâm nhập sâu vào các ngành khoa học khác và tạo thành quá trình toán học hoá khoa học (trong lĩnh vực vật lí học, hoá học, sinh vật học, thậm chí ngôn ngữ học, sử học, khoa học kinh tế v.v… cũng đang được toán học hoá).
Hoá học đã có những thành tựu to lớn, đang tạo ra một sức mạnh tổng hợp tác động vào kỹ thuật và sản xuất, mở ra những phương pháp hoàn toàn mới để sản xuất ra những “vật liệu hoá học” mà những vật liệu này có nhiều mặt ưu việt hơn so với vật liệu tự nhiên và đặc biệt nó sẽ thay thế các vật liệu tự nhiên đang cạn kiệt dần.
Với những phát minh lớn về lí thuyết hạt nhân, về sóng điện từ, trường điện từ, hiện tượng phóng xạ…, vật lí học đã góp phần quan trọng trong việc sản xuất ra những công cụ mới, vật liệu mới, nguồn năng lượng nguyên tử và những phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc hết sức hiện đại.
Cuộc cách mạng trong sinh vật học đã dẫn đến cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp và sự ra đời của Phỏng sinh học và công nghệ sinh học, bao gồm công nghệ sinh hoá, y và dược sinh hoá, công nghệ sinh vật chế biến thực phẩm, công nghệ sinh học chống ô nhiễm và bảo vệ môi trường.
Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay là cuộc cách mạng khoa học và cách mạng kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với nhau, hầu như tất cả những khuynh hướng chủ yếu của khoa học cơ bản hiện nay đều gắn liền với lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của kỹ thuật và sản xuất như khoa vật lí hạt nhân và năng lượng nguyên tử, môn điều khiển học và tự động học, môn phỏng sinh học v.v…
Thứ hai, các nhà khoa học đã có những phát minh lớn về những công cụ sản xuất mới, trong đó có ý nghĩa to lớn nhất là sự ra đời của máy tính, máy tự động và hệ thống máy tự động.
Con người thông minh nhất trong 1 phút cũng chỉ giải được một số phép tính, nhưng ngày nay, với máy tính hệ hiện đại nhất, con người có thể giải được hàng chục triệu phép tính trong một giây. Máy tính làm thơ, máy tính sáng tác nhạc, máy tính xem số tử vi v.v… Ngày nay, máy tính được coi như “trung tâm thần kinh” kỹ thuật, thay con người nắm toàn bộ quá trình sản xuất liên tục, kể cả chức năng điều khiển. Máy tự động và hệ thống máy tự động, sau khi máy tính ra đời, dẫn tới tự động hoá quá trình sản xuất, nghĩa là máy tự động không chỉ “làm việc” thay con người, mà còn có thể “nghĩ” và “giải quyết” công việc thay con người.
Các nhà khoa học còn sáng chế ra “người máy” (rôbôt) và ngày nay rôbôt đã đảm nhiệm những công việc mà con người không thể làm được hoặc không nên làm: rôbôt trèo tường, lau cửa sổ ở những toà nhà cao trọc trời, rôbôt lặn sâu xuống đại dương tới 6 – 7 nghìn mét, rôbôt làm việc trong các nhà máy điện nguyên tử ở những bộ phận dễ bị nhiễm xạ…
Ngoài ra, người ta còn sáng chế ra hàng loạt những công cụ mới có tính năng hết sức hiện đại nhằm phục vụ cho sản xuất trong tất cả các ngành công nghiệp và xây dựng.
Thứ ba, trong tình hình nguồn năng lượng thiên nhiên (than, dầu mỏ…) đang vơi cạn dần và trở nên khan hiếm một cách đáng lo ngại (sinh hoạt của con người càng nâng cao thì nhu cầu năng lượng càng tăng lên với một nhịp độ đáng sợ. Chỉ mười năm trở lại đây, nhu cầu năng lượng trên thế giới đã tăng hơn 2 lần, trong đó tiêu thụ năng lượng điện tăng hơn 3,6 lần) thì con người đã tìm ra những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú, vô tận: năng lượng nguyên tử, năng lượng nhiệt hạch, năng lượng mặt trời, năng lượng thuỷ triều… Trong những nguồn năng lượng kể trên, năng lượng nguyên tử và năng lượng mặt trời đang dần dần được con người sử dụng một cách phổ biến, và trong một tương lai không xa, nó sẽ thay thế dần ngành nhiệt điện và thuỷ điện.
Thứ tư, sáng chế ra những vật liệu mới trong tình hình vật liệu tự nhiên đang cạn kiệt dần trong thiên nhiên.
Từ rong biển, người ta có thể chế tạo ra khoảng 40 loại công nghệ phẩm tiêu dùng hàng ngày. Đã có thể sản xuất ra những thực phẩm, như thịt gà, thịt lợn, thịt bò và nhiều thức ăn hàng ngày một cách hoàn toàn nhân tạo. Con người hiện nay mặc quần áo phần lớn bằng vải sợi nhân tạo.
Trong những vật liệu mới mà con người sáng chế ra những năm gần đây, chất pôlome (chất dẻo) đang giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày, cũng như trong tất cả mọi ngành công nghiệp. Có nhiều chất dẻo nhẹ hơn nhôm 2 lần, nhưng về độ bền chúng lại hơn hẳn nhiều loại thép và có thể sử dụng để chế tạo vỏ xe tăng, máy bay, các động cơ tên lửa và con tàu vũ trụ.
Thứ năm, là cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp. Do tác động tổng hợp của các ngành khoa học, đặc biệt là sinh vật học và hoá học, nông nghiệp đang tiến những bước nhẩy vọt nhờ cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá với những biện pháp lai tạo giống, chống sâu bệnh v.v… Nhờ cuộc “cách mạng xanh” này, con người đã tìm ra phương hướng để có thể khắc phục được nạn đói ăn, thiếu thực phẩm kéo dài từ bao thế kỉ.
Thứ sáu, con người đã đạt được những tiến bộ thần kì trong các lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Trên không, đã xuất hiện những máy bay hành khách siêu âm khổng lồ (“TU – 186”, “Côngcoocđơ”, “Bôing 176” v.v…). Các tàu hoả ngày nay đã đạt tốc độ chạy nhanh tới 300 km/giờ và tới đích đúng giờ tuyệt đối. Trên mặt biển, con người đã đóng những con tàu chở dầu 1 triệu tấn v.v… Nhờ các hệ thống vệ tinh nhân tạo, loài người đã có những phương tiện thông tin liên lạc và phát sóng truyền hình hết sức hiện đại.
Ngoài ra, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay còn đem lại cho con người một thành tựu diệu kì – thành tựu chinh phục vũ trụ.
Ngày nay, con người đã đưa được người lên thám hiểm Mặt trăng, phóng những con tàu vũ trụ, những tàu con thoi bay nhiều ngày vòng quanh Trái đất, nhận được những tin tức của Sao Kim, Sao Hoả. Khoa học vũ trụ và du hành vũ trụ đã và đang phục vụ đắc lực trên nhiền phương diện cho cuộc sống của con người trên Trái đất.
3. Vị trí và ý nghĩa
Trong nửa thế kỉ qua, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã có một vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Thứ nhất, những thành tựu kì diệu của cách mạng khoa học – kỹ thuật đã làm thay đổi một cách cơ bản các nhân tố sản xuất như công cụ và công nghệ, nguyên liệu, năng lượng, thông tin, vận tải…, trong đó sự thay đổi về công cụ và công nghệ có ý nghĩa then chốt. Cũng nhờ đó, con người đã tạo ra được những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn những lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia cộng lại.
Chỉ trong 20 năm (1970 – 1990), sản xuất của thế giới năm 1990 đã tăng gấp hơn hai lần so với năm 1970, ngang với 2000 lần khối lượng của cải vật chất sản xuất ra trong 230 năm của thời đại công nghiệp (tức từ năm 1740 đến năm 1970). Với đà này, trong vài ba thập niên tới, sản xuất vật chất trên thế giới sẽ tăng lên với tốc độ và khối lượng chưa từng có.
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã và đang đưa loài người chuyển sang một nền văn minh mới, sau nền văn minh nông nghiệp đến nền văn minh công nghiệp, rồi nền văn minh mới hiện nay đang được gọi dưới những tên khác nhau như “văn minh hậu công nghiệp”, “văn minh truyền tin”, “văn minh trí tuệ”… Nhân loại đang thực sự bước vào một nền văn minh mới mà con người có thể phát triển hơn nữa sự sáng tạo trong lao động, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tiến lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống.
Thứ ba, cách mạng khoa học – kỹ thuật với những thành tựu to lớn của nó đã khiến cho nền kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá cao, đang hình thành một thị trường toàn thế giới bao gồm tất cả các nước có chế độ xã hội khác nhau vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau trong cùng tồn tại hoà bình. Mặt khác, sự giao lưu, trao đổi về văn hoá, du lịch, văn học nghệ thuật , sự hợp tác với nhau trên các lĩnh vực y tế, dân số, giáo dục, khoa học – kỹ thuật giữa các quốc gia các dân tộc trên hành tinh ngày càng phát triển và ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn.
Thứ tư, bên cạnh những thành tựu kì diệu đưa con người tiến những bước nhảy vọt, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện nay đã và đang gây nên những hậu quả tiêu cực mà hiện nay con người vẫn chưa thể khắc phục được: việc chế tạo ra những vũ khí huỷ diệt (bom nguyên tử, bom hoá học, vũ khi vi trùng, máy bay tàng hình, tên lửa vượt đại châu…) nhằm sát hại con người và nạn ô nhiễm môi sinh, những bệnh tật, tai nạn lao động, tai nạn giao thông do tiến bộ khoa học – kỹ thuật mang lại.
Sponsored content
Tiêu đề: Re: Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật sau Thế chiến thứ hai (1945)
Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật sau Thế chiến thứ hai (1945)