Các triều đại phong kiến nước ta đều không cho nữ giới được học hành, thi cử. Tuy vậy, sách vở cũng đã ghi lại chuyện một phụ nữ đã cải trang thành nam giới để đến trường học hành, thi cử và đỗ đại khoa. Đó là trường hợp Nguyễn Thị Duệ (1574-?) quê xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay.
Bốn tuổi biết viết văn
Bà còn có tên khác là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, Nguyễn Thị Du. Quê bà vốn là đất học, trước đó đã có nhiều người đỗ đạt cao, tiếng tăm lừng lẫy như các Trạng nguyên Vũ Dương, Trần Sùng Dĩnh thời Hồng Đức thế kỷ XV, Lê Nại thời Đoan Khánh đầu thế kỷ XVI. Ngay xã của bà cũng có những tấm gương học hành như Nguyễn Phong (1560-1643), Nguyễn Lệ (1543-1619) đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn, đời Sùng Khang (Mạc Mậu Hợp) (1568). Hoặc Nguyễn Doãn Khâm (1530-1592) lúc đầu chỉ là đấu vật, rồi yêu thích văn chương đã đi học và thi đỗ hoàng giáp khoa Kỷ Mùi, đời Quang Bảo (Mạc Phúc Nguyên) (1550-?).
Thuở nhỏ cô gái Nguyễn Thị Duệ tỏ ra rất sáng dạ. Lên 4 tuổi đã biết viết văn. Có cậu ấm trong vùng đến nghẹo, bà đã đọc châm 2 câu thơ: “ Xá chi vàng đá hỗn hào/ Thoảng đem cánh phượng bay cao thạch thành”. Nghe bà đọc, cậu ấm ta phải đánh bài chuồn.
Các tâm gương người cùng quê hương thi cử đỗ đạt cao cũng đã kích thích hứng thú học tập của bà. Song thời đó cuộc nội chiến Trịnh – Mạc ở vào giai đoạn quyết liệt. Cuối năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh vùng Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn, quê hương của Nguyễn Thị Duệ. Vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp bị bắt. Mấy năm tiếp sau đó, vùng Hải Dương vừa bị chiến tranh cướp phá liên miên, lại vừa bị mất mùa đói kém, người chết như rạ…Nhà Mạc bị quân Trịnh đánh bại, phải chạy lên lập nghiệp ở Cao Bằng.
Cải trang thành nam để đi thi
Nguyễn Thị Duệ mới ở độ tuổi 20 cũng theo cha lên Cao Bằng tránh loạn. Ở đây bà được học với một ông thầy họ Cao và cải trang thành nam giới, nên người ta thường gọi là anh Du. Khi nhà Mạc mở khoa thi hội, bà cùng với thấy học dự thi và đã đỗ đầu trong số tiến sĩ trúng cách. Khoa thi hội này không thấy chép trong các sách viết về thi cử của nước ta. Chỉ có sách “Chí Linh phong vật chí” nói đến và ghi là năm Mậu Thìn (1568). Thời gian trên có lẽ không chính xác, vì năm này Mạc Mậu Hợp còn ở Thăng Long, chưa xảy ra các sự kiện mà Mạc phải chạy lên Cao Bằng. Theo chúng tôi có lẽ vào năm Giáp Thìn (1604) thì đúng hơn. Lúc này Nguyễn Thị Duệ đã ở tuổi 30.
Tạm vào chùa tu
Trong buổi tiệc mừng tân khoa, vua Mạc nhận ra ông nghè thủ khoa có dáng vẻ yêu kiều, thanh tú giống nữ giới. Sực nhớ đến giấc mộng đêm trước, thấy người đỗ tiến sĩ là nữ, nhà vua bèn gặng hỏi và bà Nguyễn Thị Duệ đành phải thú thực. Vua Mạc chẳng những không khép tội mạo danh theo quy chế thi cử thời phong kiến mà còn giữ nguyên học vị của bà và phong là “Diệu Huyền Sao Sa” nghĩa chữ là “Tinh phi” (sao sa) rồi đưa vào cung. Bà được vua sủng ái, giao cho việc dạy bảo các phi tần.
Thời gian này họ Mạc ở Cao Bằng thỉnh thoảng cũng đem quân về xuôi đánh phá một số vùng, ví như năm 1601, Mạc Kính Cung chiếm cứ Hải Dương. Sau đó bị Bình An Vương, Trịnh Tùng đánh bại, lại chạy lên Cao Bằng. Khoảng năm 1623. Mạc Kính Khoan lại kéo quân về tới tận Gia Lâm sát kinh đô Thăng Long. Trịnh Cán cho đại quân chặn đánh, khiến quân Mạc đại bại, Kính Khoan may mắn chạy thoát. Năm 1625 Trịnh Tráng sai con là Trịnh Kiều đem quân lên Cao Bằng đánh họ Mạc, bắt giết Mạc Kính Cung. Mạc Kính Khoan chạy sang Tàu, sau trở về dâng biểu xin hàng, được phong làm Thái úy thống Quốc Công, lại cho giữ đất Cao Bằng.
Có lẽ khoảng thời gian 1623, nhân chuyến Mạc Kính Khoan kéo quân về xuôi, Nguyễn Thị Duệ đã theo về thăm quê. Quân Mạc bị đánh bại tán loạn, về quê thì e ngại, mà trở lên Cao Bằng đường đã tắc nghẽn, nên Nguyễn Thị Duệ đành cải trang, xin vào tu trong một ngôi chùa.
Trở thành Lễ phi trong phủ chúa
Khi quân Trịnh đánh đuổi quân Mạc, kéo đến ngôi chùa này thì phát hiện được Nguyễn Thị Duệ. Tướng Trịnh bấy giờ là Nguyễn Quý Nhạ, vốn cùng quê với bà Duệ, lại quen nhau từ lúc thiếu thời, nên đem lòng quý mến, đã thảo một tờ khải dâng lên chúa Trịnh Tráng tâu trình về việc nữ sĩ Nguyễn Thị Duệ. Chúa Trịnh Tráng đọc tờ khải cũng thấy lạ, bèn truyền đòi đưa Nguyễn Thị Duệ về kinh. Qua hỏi chuyện, chúa nhận thấy bà Duệ có học thức uyên thâm, thấu đạt nhiều sách vở, tư cách đoan trang, bèn phong cho bà giữ chức Lễ Phi, làm công việc dạy dỗ các phi tần bên phủ chúa và cung vua.
Cũng trong thời này, Nguyễn Thị Duệ được gần gũi với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, một bà hoàng nổi danh chữ nghĩa đương thời. Nguyên bà hoàng hậu họ Trịnh này là con chúa Trịnh Tráng, đã lấy Quận Công Lê Trụ, bác họ của vua Lê Thần Tông và sinh hạ được bốn con. Lê Trụ bị tội, Trịnh Tráng đem bà gả cho vua. Lúc đầu vua miến cưỡng lấy bà, nên khi nghe mấy viên quan can ngăn, đành nói: Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy! Nhưng về sau do quý trọng tài đức, nhà vua đã lập bà làm hoàng hậu. Trịnh Thị Ngọc Trúc là người thích văn chương, chữ nghĩa. Bởi vậy khi gặp tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ thì hai người trở nên thân thiết, tri kỷ. Hoàng hậu họ Trịnh đã tiến cử bà Duệ với vua Lê Thần Tông. Nhà vua qua những lần hỏi han trò chuyện, đã thấy bà là một phụ nữ tài năng, đức độ nên phong cho bà chức Chiêu Nghi, đứng trên các cung tần. Bà lấy hiệu là Nghi Ái Quan, được nhà vua ưu ái, cho bày tỏ ý kiến về một số văn bản của triều đình, cũng như nhận xét, đánh giá bài làm của thí sinh các khoa thi hội, thi đình.
Sách chép khoa thi hội năm Tân Mùi niện hiệu Đức Long (1631) có một thí sinh đề ra 12 mục, nhưng bài thi chỉ làm 4 mục, song văn bút rất xuất sắc, độc đáo. Các khảo quan lấy làm lạ chưa dám quyết, tâu trình lên vua. Nhà vua giao cho số đỗ đại khoa trong triều xem lại bài.Bà Nghi Ái Quan cũng được tham dự. Bà đọc đi đọc lại bài văn, thấy quả thí sinh này là người học rộng, có tài, bèn nhất trí với các quan tâu vua lấy đỗ nhất. Đến khí khớp phách, bà mới hay đó là bài của Nguyễn Minh Triết, cậu em họ mình.
Trong thời gian ở cung, Nguyễn Thị Duệ thường đi lễ chùa với Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và có dịp gặp gỡ, đàm đạo văn chương đạo lý với một số danh nho tiết tháo đương thời như các thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, Giang Văn Minh, Khương Thế Hiển. Bà luôn hướng về quê hương, lập ra “ Văn Hội” ở huyện Chí Linh cho học trò vùng này đến ôn luyện văn chương sách vở. Bà ra đề gửi cho họ làm, rồi đóng hòm trở về kinh để cho bà chấm, chữa…
Tuy nhiên đứng trước thời cuộc bấy giờ, bà Nguyễn Thị Duệ đã mang nặng nỗi niềm suy tư, trăn trở. Nhà Mạc ở Cao Bằng thì đã đến ngày tàn. Vua Lê chỉ ngồi làm vì, không có quyền hành, thực lực. Sau nội chiến Trịnh - Mạc lại tiếp đến Trịnh - Nguyễn khiến đất nước, dân tình khốn khổ. Càng nghĩ ngợi bà Duệ thêm chán ngán nên quyết xin rời cung trở về quê. Nhà vua và chúa Trịnh Tráng thấy không khuyên giữ được dành để cho bà về và cấp cho làng Kiết Đặc (An Lạc) quê bà ruộng lộc điền, miễn sưu thuế phu phen tạp dịch, để bà có nơi tĩnh dưỡng.
Sống lâu, không rõ năm mất
Nguyễn Thị Duệ sống lâu nhưng mất năm nào không rõ. Theo sách ghi lại thì xưa kia tại làng Kiết Đặc có chùa thờ bà, bia mộ và ngôi tháp “Tinh phicổ pháp” khắc mười chữ hán: “Lễ sư sinh thông tuệ. Nhất kính chiếu tam Vương” (là Lễ sư sinh thời rất thông tuệ, một cái nhìn thấu cả ba vua). Ngôi tháp này được xếp một trong “Chí Linh bát cổ” ( 8 vật cổ của Chí Linh). Ngôi chùa có đôi câu đối:
“Giáp khoa tiên chiếm Cao Bình bảng
Đại bút do truyền Bát Cổ bi”
Nghĩa là:
“Khoa giáp đứng đầu bảng ở Cao Bằng
Văn Chương lừng danh để lại ở bia Bát Cổ”
Văn bia “Chí Linh Bát cổ”, khắc dựng năm Gia Long nguyên niên (1802), còn bài thơ sau ca ngợi tài danh nữ tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ.
“Ngọc thủ chiết cao chí
Kính nhan lưu cổ tháp
Tùng cổ thử giang sơn
Chí kim kỷ mình giáp
Hoa thảo tự tạ khai
Ngư tiều tương vấn đáp
Sơn sắc chính thanh thương
Thu thanh hà tiêu táp”
Tạm dịch:
“Tay ngọc bẻ cành cao
Mặt gương in cổ tháp
Từ xưa núi sông này
Đến nay còn man mác
Hoa cỏ tự nở tàn
Ngư tiều cũng hỏi đáp
Sắc núi vẫn trong xanh
Tiếng thu sao xào xạc?”
Nhưng hiện nay, theo một số nhà nghiên cứu cho biết, những di vật trên không còn, nên những chuyện về vị nữ tiến sĩ duy nhất của đất nước ta thời phong kiến, chỉ là sự chắp nhặt một số tư liệu còn lại trong sách vở là những giai thoại mà thôi!
Theo Khoa học & Đời sống Online