- Khủng hoảng, suy yếu: Chế độ phong kiến ở vào giai đoạn suy sụp về nhiều mặt: Chính quyền trung ương đã bạc nhược, không còn đủ khả năng cai trị đất nước; giai cấp thống trị sa đọa, thối nát; kinh tế nông nghiệp đình trệ; công thương bị kìm hãm; nông dân đói kém triền miên phải bỏ làng mạc, ruộng đồng đi phiêu tán; mâu thuẫn xã hội sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra khắp mọi nơi chống lại triều đình.
- Chính sách “bế quan, tỏa cảng”: Chính sách của triều đình nhà Nguyễn vào nửa đầu thế kỉ XIX thực hiện không giao du, buôn bán, quan hệ hoặc trao đổi với người nước ngoài, nhất là người phương Tây.
- Chính sách “trọng nông, ức thương”: Chính sách của triều đình nhà Nguyễn vào nửa đầu thế kỉ XIX, xuất phát từ tư tưởng lấy nông nghiệp làm chính sách căn bản của quốc gia, nên đã coi trọng nông nghiệp, hạn chế sự phát triển của thương nghiệp.
- Giáo sĩ: Người đi truyền đạo Thiên Chúa (để chuẩn bị cho quá trình xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã sử dụng bọn giáo sĩ đến truyền đạo, qua đó tìm hiểu tình hình Việt Nam, báo cáo cho tư bản Pháp chuẩn bị hành động xâm lược).
- Can thiệp: Việc một nước hay một số nước dùng sức mạnh tự ý xen vào công việc nội bộ của nước khác không chính đáng. Sự can thiệp này có thể tiến hành bằng quân sự (vũ trang can thiệp) hoặc bằng kinh tế, ngoại giao, tư tưởng,… Ở nước ta vào cuối thế kỉ XVIII, khi phong trào Tây Sơn nổ ra, Nguyễn Ánh đã cầu cứu các thế lực nước ngoài giúp đỡ để khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa Lộc đã nắm cơ hội đó, tạo điều kiện cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam (thông qua Hiệp ước Véc-xai 1878).
- Duyên cớ: Đối phương dựa vào một sự việc đã xảy ra (đôi khi không quan trọng) để làm cái cớ gây sự, để làm bùng nổ cho một sự kiện có nguồn gốc sâu xa khác. Sau khi lấy cớ triều đình nhà Nguyễn cấm đạo, không trả lời quốc thư của nước Pháp, sáng ngày 1/9/1858, thực dân Pháp cùng liên quân Tây Ban Nha đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng, nổ súng chính thức xâm lược Việt Nam.
- Tối hậu thư: Lá thư gửi lần cuối cùng nêu lên những yêu cầu, điều kiện bắt buộc đối phương phải thực hiện theo, nếu không sẽ bị dùng vũ lực tấn công. Sáng ngày 1-9-1858, Pháp gửi tối hậu thư, đòi quan trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ. Nhưng không đợi hết hạn trả lời, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, nổ súng chính thức mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam.
- Kế hoạch “Đánh nhanh thắng nhanh”: Kế hoạch xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp và Tây Ban Nha. Dựa vào ưu thế ban đầu về sức mạnh quân sự, Pháp và Tây Ban Nha định tấn công chớp nhoáng nước ta trong vòng một tháng, kết thúc nhanh chóng cuộc chiến, giành thắng lợi để tránh gặp phải những khó khăn khi chiến tranh kéo dài. Tuy nhiên, do tinh thần anh dũng kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, kế hoạch Đánh nhanh thắng nhanh của chúng bị thất bại, Pháp phải chuyển sang kế hoạch Chinh phục từng gói nhỏ (còn gọi là kế hoạch Tằm ăn lá dâu).
- Hiệp ước (Nhâm Tuất – 1862): Loại văn bản quan trọng do chính phủ hai bên hoặc nhiều nước kí kết để cùng có trách nhiệm thực hiện những điều đã thỏa thuận. Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường và Biên Hòa) và một tỉnh miền Tây (Vĩnh Long), triều đình nhà Nguyễn đã lo sợ và kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất – 1862 với nhiều điều khoản nặng nề, làm cho nhân dân ta bất bình, phản đối hành động bán nước của triều đình và nêu cao tinh thần quyết đánh cả triều lẫn Tây.
- Phong trào “Tị địa”: Phong trào của nhân dân Nam Kì không nghe theo yêu cầu của triều đình nhà Nguyễn (ra lệnh cho nhân dân bỏ vũ khí, không đánh Pháp để hi vọng chuộc lại đất chúng đã chiếm), bỏ đi nơi khác sinh sống (vùng tự do do triều đình kiểm soát) để tiếp tục đánh Pháp, quyết không chịu cộng tác với Pháp.