CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
Tư sản dân quyền
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 Giải thích một số thuật ngữ Trung Hoa

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Giải thích một số thuật ngữ Trung Hoa I_icon_minitimeWed Apr 06, 2011 3:27 pm

phangxehana
lịch sử

Thành viên cấp 1

phangxehana

Thành viên cấp 1

Họ & tên Họ & tên : Nguyẽn Thị Én
Ngày tham gia Ngày tham gia : 11/10/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 32
Đến từ Đến từ : Nam Định
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : lịch sử
Điểm thành tích Điểm thành tích : 68
Được cám ơn Được cám ơn : 4

Bài gửiTiêu đề: Giải thích một số thuật ngữ Trung Hoa

 
Văn hóa Trung Quốc là một kho tàng quý báu cho người đời sau chiêm nghiệm và học hỏi. Những thành tựu văn hóa mà con người Trung Quốc cổ xưa để lại không chỉ có ảnh hưởng trong nước, mà nó còn có sức lan tỏa, ảnh hưởng rất lớn tới các nền văn hóa khác trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do đó, để hiểu sâu hơn về nền văn hóa lớn này, về đất nước đã sáng tạo ra nền văn hóa đó, chúng ta cần tìm hiểu những thuật ngữ, cụm từ gắn liền với nó.
 “Bách niên giai lão”
“Bách”: một trăm. Niên”: năm. “Bách niên” là "trăm năm. Trăm trong trăm năm không phải là con số cụ thể: Trăm năm biểu trưng cho đời một con người, cho tuổi thọ của một người. "Trăm năm trong cõi người ta" (Truyện Kiều - .Nguyễn Du). “Giai”: cùng. “Lão”: già. “Giai lão” có nghĩa là cùng nhau đến già.
Thành ngữ “Bách niên giai lão” dùng trong lời chúc (cho các đôi vợ chồng lúc làm lễ kết hôn) được hạnh phúc lâu bền, chung sống cùng nhau đến trọn đời.
 “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”
“Nhất”: một. “Tự”: chữ. “Vi”: là, coi là. “Sư”: thầy. “Bán”: nửa. “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” nghĩa là: Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy; ý muốn nói phải tôn kính, biết ơn người dạy bảo( dù chỉ là nửa chữ ).
 “Quyền huynh thế phụ”
“Quyền”: quyền hành. “Huynh”: anh. “Thế”: thay thế. “Phụ”: cha.
“Quyền huynh thế phụ” lâu nay vẫn bị hiểu là cái quyền hành của anh là thay thế cho cha khi cha mất để lo cho các em.
Thực chất chữ “Quyền” trong cụm từ này không hề chỉ quyền hành, quyền lợi, quyền lực, quyền thế,.v.v…mà chỉ có nghĩa là quyền biến (động từ chứ không phải danh từ). Quyền biến là nói tắt cụm từ “ngộ biến tòng quyền” của Mạnh Tử. Nó xuất phát từ mẩu chuyện sau:
Nguyên Nho giáo quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” (trai gái kẻ trao người nhận không được gần kề). Vế tiếp theo là “điện nhi thủ chi” (đặt ở đấy mà lấy). Ngụ ý cụ thể ở đây là nam nữ không được động đến tay nhau (dễ bị “nhân điện” dẫn đến hành vi bản năng trái với đạo lý). Thế là có người “hỏi ngay” (vấn nạn) Mạnh tử: “Nếu chị dâu rơi xuống giếng thì phải làm sao?” Mạnh Tử đáp “Xử thường chấp kinh, ngộ biến tòng quyền” (cư xử lúc bình thường thì chấp hành đạo lý, gặp tai biến thì tạm theo cách làm cần thiết của tình thế).
Suy luận theo tinh thần ấy của Mạnh Tử thì “Quyền huynh thế phụ” có nghĩa là “tạm thời dùng anh thay cha” (khi…ngộ biến). Người làm anh trong trường hợp này phải đặt vấn đề trách nhiệm hơn quyền lợi, phải gánh vác việc của cha để lại, còn về mặt tình nghĩa thì anh vẫn mãi là anh, em vẫn mãi là em chứ không hề có chuyện đột xuất chuyển tình anh em ra đạo cha con được. Và đã là tình anh em thì phải giữ cho đúng theo giáo điều “huynh hữu đệ cung”, tức là anh thì nhất thiết phải coi em như bạn (hữu), nhưng em phải kính trọng (cung) anh như cư xử với bề trên, chứ không được lợi dụng tình thân mà bỗ bã, xô bồ.
 “Tam Hoàng Ngũ Đế”
“Tam Hoàng Ngũ Đế” (chữ Hán: là thời kỳ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, và là các vị vua huyền thoại của Trung Quốc trong thời kỳ từ năm 2852 TCN tới 2205 TCN, thời kỳ ngay trước thời nhà Hạ.
“Tam Hoàng” là ba vị vua đầu tiên của nước này. “Ngũ Đế” là năm vị vua nối tiếp theo Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung Hoa, đưa dân tộc này thoát khỏi tình trạng sơ khai. Trong thời kỳ này, người Trung Quốc đã biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, thực hiện lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết. Theo truyền thuyết, ba vị vua này được cho là thần tiên hoặc bán thần, những người đã sử dụng các phép mầu để giúp dân. Do phẩm chất cao quý nên họ sống lâu và thời kỳ cai trị của họ hòa bình thịnh vượng.
Đó là thời kỳ sơ khai tối cổ của Trung Quốc. Văn minh chưa có hay mới bắt đầu có nhưng rất thô sơ và dân chúng rất thưa thớt, sống từng nhóm nhỏ theo lối du mục, không có dấu tích gì còn sót lại. Điều này khiến việc nghiên cứu để biết rõ các triều đại tối cổ này khá khó khăn.
Những từ ngữ như Tam Hoàng, Ngũ Đế, và hiệu của các vị vua, do người đời sau đặt ra để hệ thống hóa các tư liệu về cổ sử. Còn Đế hiệu thì lấy tên đất mà đặt ra, gọi là Địa hiệu, hoặc lấy công đức đối với dân mà đặt ra, gọi là Đức hiệu.
Tam Hoàng: Các học giả Trung Hoa không nhất trí với nhau về Tam Hoàng cụ thể là ai.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, ba vị vua là:
Thiên Hoàng (trị vì 18.000 năm)
Địa Hoàng (trị vì 11.000 năm)
Nhân Hoàng (còn gọi là Thái Hoàng (trị vì 45.600 năm).
Vận Đẩu Xu và Nguyên Mệnh Bao cho rằng ba vị là:
Phục Hi
Nữ Oa
Thần Nông
Trong đó, Phục Hi và Nữ Oa là thần chồng và thần vợ, được coi là tổ tiên của loài người sau một trận đại hồng thủy. Cũng như Thần Nông là người đã phát minh ra nghề nông và là người đầu tiên dùng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh.
Các sách Thượng thư đại truyện và Bạch hổ thông nghĩa thay thế Nữ Oa bằng Toại Nhân, người phát minh ra lửa. Sách Đế vương thế kỉ thay thế Nữ Oa bằng Hoàng Đế, người được coi là tổ tiên của người Hán.
Việc thay thế Nữ Oa - một nữ thần - bằng một vị nam thần được cho là kết quả của việc chuyển từ chế độ mẫu hệ thời cổ xưa sang chế độ phụ hệ trọng nam khinh nữ.
Ngũ Đế: Cũng có nhiều giả thuyết: Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Ngũ Đế bao gồm:
Hoàng Đế
Chuyên Húc
Đế Khốc
Đế Nghiêu
Đế Thuấn
Theo Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, các vua đó đều do người Trung Quốc tưởng tượng ra, chỉ có Nghiêu, Thuấn có thể coi là bán thực bán huyền. Trong đó, Nghiêu và Thuấn còn được gọi là Nhị Đế, cùng với Đại Vũ, người sáng lập ra nhà Hạ, được Khổng giáo coi là các vị vua kiểu mẫu và là các tấm gương đạo đức. Thượng thư tự và Đế vương thế kỷ lại liệt kê Thiếu Hạo thay cho Hoàng Đế.
Sở Từ nói đến Ngũ Đế như là các vị thần ở các phương:
Thiếu Hạo (đông)
Chuyên Húc (bắc)
Hoàng Đế (trung)
Phục Hi (tây)
Thần Nông (nam)
Lễ ký đồng nhất Ngũ Đế với Ngũ Thị, bao gồm:
Hữu Sào thị
Toại Nhân thị
Phục Hi thị
Nữ Oa thị
Thần Nông thị
Vị hoàng đế Trung Hoa đầu tiên trong lịch sử là Tần Thủy Hoàng, người đã tạo từ mới cho "hoàng đế" bằng cách kết hợp các danh hiệu "hoàng" của Tam Hoàng với "đế" (với nghĩa vua-thần).
 “Thiên thu vạn đại”
“Thiên”: một ngàn. “Thu”: mùa thu, chỉ một năm. “Thiên thu” là một ngàn mùa thu, tức là một ngàn năm.
“Vạn”: muôn, mười ngàn, chỉ một số nhiều lắm. “Đại”: đời, thời đại. “Vạn đại” là muôn đời, trải qua nhiều thế hệ lâu xa lắm.
“Thiên thu vạn đại” chỉ thời gian rất lâu dài, rất nhiều thế hệ
 “Bách gia chư tử”
“Bách”: trăm. “Gia”: nhà. “Chư”: mọi. “Tử”: thầy. “Bách gia chư tử” là tên gọi chung của các nhà học giả, các triết gia, các nhà tư tưởng và chính khách ở thời Chiến quốc (thế kỷ V – III TCN) bên Trung Quốc. Thời kỳ này có hàng trăm nhà tư tưởng, chính khách đua nhau đề xướng các chính sách, các cải cách, các quan niệm, v.v…về kinh tế, về chính trị, phép trị nước và thống trị thiên hạ. Họ cũng đề ra các thứ tôn giáo khác nhau, lý giải về cuộc đời, về xã hội và thế giới. Khổng Tử, Lão Tử, Hàn Phi Tử, Trang Tử, rồi Thương Ưởng, Tô Tần, Trương Nghi…là những nhà tư tưởng nổi tiếng thời này.
Số học giả ấy không phải chỉ một vài người, và số tác phẩm viết ra không phải chỉ một vài cuốn, cho nên mới gọi là Bách Gia Chư Tử, hay gọi một cách giản dị hơn là Chư Tử.
Đa số sách của Chư Tử, đều không phải do chính tay của người ấy viết mà chỉ do đệ tử hay kẻ hậu học ghi chép lại.
Như các sách của Trang Tử, Mặc Tử, v.v...đều do học trò ghi chép lại những lời của thầy, gom góp, sắp xếp lại thành sách và ghi lên trên tên của thầy. Gom tất cả các loại sách ấy lại nói chung là Chư Tử.
 “Triều sính minh hội”
Thời kỳ Xuân - thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương pháp "triều sính" và "minh hội".
"Triều sính" là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật cho mình.
"Minh hội" là hội thề. Các nước lớn hội nghị với nhau dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước nhỏ.
“Triều sính” còn nghĩa là khi chư hầu triều sính thiên triều một, thì thiên triều cho lại chư hầu nhiều hơn (Trung Dung 20): "Triều sính dĩ thì, hậu vãng nhi bạc lai": "Triều sính đúng lúc, đưa đến ít cho lại nhiều"
 “Tri ân”
“Tri”: Biết, hiểu biết, quen biết. “Ân”: Ơn. biết ơn. “Tri ân”: tỏ lòng biết ơn.
"Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ với là tri ân." (TKiều)
“Tin nhạn”
“Tin”: Tin tức. “Nhạn”: chim nhạn. Nhạn là loài chim khôn ngoan, được tập luyện như chim bồ câu, để mang thư từ nơi này đến nơi khác, cách nhau rất xa. Thư được buộc vào chân nhạn. “Tin nhạn” là tin tức do chim nhạn mang tới.
Có hai điển tích về Tin nhạn:
● Tô Võ chăn dê: Tô Võ làm quan Đại Học Sĩ dưới triều vua Hán Nguyên Đế. Tô Võ được Tể Tướng Trương Văn Học đề cử làm sứ giả sang Phiên quốc để cầu hòa, yêu cầu quân Phiên lui binh. Vua Phiên không chịu, đòi Hán Nguyên Đế phải dâng nạp Tây Cung là nàng Chiêu Quân thì mới chịu hòa. Vua Phiên bắt giam Tô Võ, bỏ vào hang đá 3 ngày không cho ăn uống, nhưng Tô Võ không chết nhờ vuốt giọt sương đọng nơi ngù cờ thấm giọng. Vua Phiên tưởng Tô Võ có Thần nhân ủng hộ nên không dám giết, truyền đày Tô Võ lên phương Bắc, đến Mục Dương thành chăn đàn dê đực 100 con, nói rằng chừng nào dê đực đẻ con thì mới cho Tô Võ về nước.
Tô Võ tuổi già sức yếu, chịu cái lạnh không nổi, tưởng phải bỏ xác nơi nước Phiên, may nhờ một con vượn cái (giả nhơn) đem về hang nuôi dưỡng mới sống đặng, và nhờ đàn vượn con chăn dắt đàn dê.
Khi mùa đông đến, Tô Võ bắt chim nhạn, buộc thơ vào chân chim nhạn, chim nhạn sẽ tránh lạnh bay về phương Nam là nước Tàu, dân chúng bắt chim nhạn, thấy thơ của Tô Võ, liền đem dâng cho vua Hán. Nhờ vậy, Hán Nguyên Đế biết rõ Tô Võ không qui phục vua Phiên, bị vua Phiên đày đi chăn dê ở miền Bắc nước Phiên.
● Chiêu Quân cống Hồ: Cũng vào thời vua Hán Nguyên Đế, triều đình suy sụp, không có tướng tài chống cự quân Phiên (nước Phiên còn được gọi là nước Hồ), bị quân Phiên đánh tới kinh thành. Hán Nguyên Đế đành phải đem nàng Chiêu Quân cống nạp vua Phiên để xin bãi binh. Vua Phiên bằng lòng. Hán Nguyên Đế sai quan chuẩn bị xe cộ đưa Chiêu Quân đi. Khi đến ải Nhạn Môn quan là nơi biên giới giữa hai nước. Nàng Chiêu Quân truyền dừng lại để nàng cầu nguyện, rồi nàng bước lên Nhạn Lạc đài, viết một bức huyết thơ buộc vào chân chim nhạn, gởi cho Hán Nguyên Đế, yêu cầu nhà vua khởi binh đánh nước Phiên để cứu nàng và gỡ nhục quốc thể. Chim nhạn mang thơ về vua Hán, nhưng Hán Nguyên Đế nhu nhược, triều đình suy yếu, đành bất lực để nàng Chiêu Quân cống Hồ.
Chiêu Quân quá phiền não, ôm đàn tỳ bà khảy lên khúc nhạc quá quan vô cùng ai oán, than thân trách phận, phiền giận vua Hán, oán trách cả cao xanh đưa nàng vào nơi tuyệt vọng.
Khi nàng Chiêu Quân đến gặp vua Phiên, việc đầu tiên là nàng yêu cầu vua Phiên giết ngay tên gian tặc Mao Diên Thọ, kế đó là xin vua Phiên tha cho Tô Võ trở về nước Tàu. Xong rồi, nàng bày ra việc đi hành hương nơi bờ sông, rồi thình lình gieo mình xuống dòng sông tử tiết. Nước sông chảy xiết, cuốn trôi xác nàng đem trở về nước Tàu.
 “Tứ hải giai huynh đệ”
“Tứ”: Bốn, thứ tư. “Hải”: biển. “Giai”: đều. “Huynh đệ”: anh em.
“Tứ hải” là bốn biển. Người xưa cho rằng, bốn mặt chung quanh đất liền đều là biển cả, nên dùng chữ Tứ hải là để chỉ toàn cả thế giới.
“Tứ hải giai huynh đệ” là toàn cả thế giới đều là anh em.
Câu nói này nêu lên ý tưởng đại đồng, cho rằng toàn cả nhơn loại trên thế giới đều là anh em một nhà, tuy màu da sắc tóc khác nhau, nhưng đều cùng chung một dòng máu đỏ.
Sách Luận Ngữ: "Quân tử kính nhi vô thất, dữ nhân cung nhi hữu lễ, tứ hải chi nội giai huynh đệ." Nghĩa là: người quân tử kính mà không để mất, đối xử với người thì khiêm cung mà có lễ phép, trong bốn biển đều là anh em với nhau.
 “Song hỷ lâm môn”
“Song”: Hai cái, một đôi. “Hỷ”: mừng. “Song hỷ” là hai điều vui mừng đến một lượt.
Song hỷ còn có nghĩa là hai việc vui mừng song song với nhau: nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái.
“Lâm”: đến. “Môn”: Cửa, cái nhà, tông phái.
“Song hỷ lâm môn”, nghĩa là hai chuyện vui cùng đến nhà
Điển tích về “song hỷ lâm môn”: Vương An Thạch đời nhà Tống bên Tàu, năm 20 tuổi đi lên kinh đô để thi Trạng nguyên, dọc đường dừng chân nghỉ tại một thị trấn có trang viện của Mã Viên ngoại. Vương An Thạch thấy trước nhà có treo một cái đèn kéo quân, trên đó có dán một vế câu đối: Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ.
Nghĩa là: Đèn kéo quân, quân kéo đèn, đèn tắt quân ngừng đi.
Vế đối còn chờ người. Vương An Thạch xem xong nói:
- Câu nầy dễ đối thôi.
Nói rồi liền bỏ đi. Người nhà của Mã Viên ngoại nghe được, chưa kịp vào trình với Viên ngoại thì cậu thiếu niên Vương An Thạch đã lên đường lên kinh đô.
Nơi trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xong, đem nộp quyển trước tiên. Quan Chủ khảo lật ra xem, tấm tắc khen tài, rồi bảo Vương qua thi vấn đáp.
Quan Chủ khảo thấy lá cờ vẽ hình con cọp đang bay phất phơ trước gió, liền nghĩ ra vế đối: Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân.
Nghĩa là: Cờ bay hổ, hổ bay cờ, cờ cuộn hổ ẩn mình.
Vương An Thạch chợt nhớ vế đối trên đèn kéo quân trước nhà Mã Viên ngoại, nếu đem đối vào đây thì rất hay và rất chỉnh, liền ứng khẩu đọc vế đối cho quan giám khảo nghe:
Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ.
Quan Chủ khảo không ngờ Vương An Thạch có tài ứng đối mau lẹ như vậy, câu đối rất chỉnh, nghĩa lý xuất sắc.
Thế là Vương An Thạch coi như đã thi đậu đầu trong kỳ thi ấy, chỉ chờ chính thức đăng tên lên bảng vàng và giấy báo mà thôi.
Vương An Thạch trở về quê nhà, đi ngang qua nhà Mã Viên ngoại, người nhà của Mã Viên ngoại nhận biết Vương là người mà trước đây đã nói rằng vế đối dán trên đèn kéo quân dễ đối thôi, nên mời Vương vào nhà trình với Mã Viên ngoại.
Mã Viên ngoại yêu cầu Vương đọc vế đối. Vương liền lấy vế đối của quan Chủ khảo đọc lên:
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân.
Mã Viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đối rất chỉnh rất khéo, nên nói với Vương An Thạch rằng:
- Vế đối dán trên đèn kéo quân là của con gái lão, nó kén chồng nên thách đối như thế, nếu ai đối được nó mới chịu ưng làm chồng. Để lão gọi con gái lão ra cho hai đàng giáp mặt.
Thế là đám cưới được tổ chức linh đình tại Mã gia trang.
Vương An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, và ở luôn tại nhà Mã Viên ngoại.
Cũng ngay trong ngày đám cưới đó, triều đình đăng bảng, Vương An Thạch được chấm đậu Trạng nguyên, được triều đình đòi lên kinh đô lãnh chức.
Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà đạt được một lượt hai điều vui mừng: một là cưới được vợ tài giỏi giàu có, hai là được chấm đậu Trạng nguyên.
Vương An Thách rất hứng chí, lấy giấy viết lớn hai chữ Song hỷ dán trước nhà và ngâm:
Vận may đối đáp thành song hỷ,
Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng.
Vậy, gốc tích của chữ Song hỷ là do điển tích này, tức là vừa cưới được vợ, vừa thi đậu Trạng nguyên.
Khéo đối thành ra khúc hỷ ca,
Ngựa phi hùm chạy thực giao hòa.
Động phòng hoa chúc, tên đề bảng,
Tiểu đăng khoa lại Đại đăng khoa.
Nhưng về sau, chữ Song hỷ được dùng với ý nghĩa khác hơn một chút: là hai việc vui mừng song song nhau: nhà trai vui mừng có dâu mới, nhà gái vui mừng có rể mới.
 “Giấc hoè”
Giấc ngủ nằm mơ thấy mình được hưởng phú quý. “Tiếng sen sẽ động giấc hòe” (Truyện Kiều)
Giấc mộng ở nước Hoè An, đây chỉ giấc ngủ
Sách “Dị Văn lục” (thời Đường) có chép: Mé nam nhà Thuần Vu Phần có cây Hoè to, họ Thuần thường ngồi uống rượu dưới gốc cây Hoè đó. Có một lần uống say, Thuần Vu Phần về nhà nghỉ, nằm mộng thấy 2 sứ giả đến nói: "Hoè An quốc vương sai tiểu thần mời ngài lên xe đi đến nước Hoè An." Thế rồi 3 người lên xe, nhắm phía cây Hoè mà ruổi đến. Đến nơi, vào một cửa thành lớn màu đỏ, trên có chữ đề: "Đại Hoè An Quốc". Vua gả công chúa cho, phong Vu Phần làm thái thú quận Nam Kha. Bấy giờ, họ Vu thật cực kỳ giàu sang, vinh hiển. Khi tỉnh dậy, tìm đến gốc cây hoè thì chỉ có một hang tổ kiến, trong hang có một con to hơn cả đầu đỏ, cánh trắng. Vu Phần mới ngẫm ra: Đó là nước Hoè An và vua của nước ấy. Còn trên một cái hang ở tận trong cùng, về phía nam cây hoè, có một cành là rườm rà mới biết đó là quận Nam Kha (Cành cây mé nam). Do đó, dùng "Giấc hoè", "Giấc Nam Kha" để nói công danh phú quý là hư ảo, đời người ngắn ngủi như một giấc mộng: "Giấc Nam kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không"
 “Bảng vàng”
“Bảng vàng”: Bảng gỗ sơn son thiếp vàng, dán giấy vàng ghi danh sách những người đỗ tiến sĩ thời phong kiến
 “Đào nguyên”
“Đào”: Cây đào, trái đào. “Nguyên”: nguồn nước, dòng suối.
“Đào nguyên”, dịch ra là Nguồn đào, Suối hoa đào, là một dòng suối từ trong khe núi chảy ra, hai bên bờ có những cây đào, hoa đào rơi xuống trông rất đẹp mắt. “Đào nguyên” là chỉ cảnh Tiên, cõi Tiên.
Điển tích về “Đào nguyên”: Trong bài “Đào Hoa Nguyên ký”, tác giả Đào Tiềm kể chuyện về suối hoa đào như sau:
Vào triều vua Hiếu Vũ Đế nhà Tấn (376-396), có một người ở huyện Vũ Lăng tỉnh Hồ Nam làm nghề đánh cá, theo dòng khe mà bơi thuyền đi chơi, quên mất đường xa gần, bỗng gặp một rừng hoa đào mọc sát bờ khe mấy trăm bước, không xen loại cây nào khác, cỏ thơm tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ.
Người đánh cá lấy làm lạ, tiến thêm vô đến cuối khu rừng. Rừng hết, hiện ra một cái suối và một ngọn núi. Núi có hang nhỏ, mờ mờ như có ánh sáng, bèn buộc thuyền rồi lên bờ, đi vào lối cửa hang. Mới đầu, hang rất hẹp, chỉ vừa lọt một người đi. Nhưng đi vô vài chục bước thì hang nở rộng ra, sáng sủa, đất bằng phẳng trống trải, thấy có nhà cửa tề chỉnh, ruộng tốt ao đẹp, có trồng cây dâu cây trúc, đường ruộng thông nhau, tiếng gà gáy, tiếng chó sủa tiếp nhau, thấy có người đi lại, có người đang làm ruộng, đàn ông đàn bà đều ăn mặc giống như những người bên ngoài, từ người già tóc bạc đến những đứa trẻ để tóc trái đào, đều hớn hở vui vẻ.
Họ thấy người đánh cá đi tới thì lấy làm kinh dị, hỏi ở đâu tới? Người đánh cá kể rõ đầu đuôi. Họ bèn mời về nhà, bày rượu thịt ra thết đãi. Người trong xóm hay tin có người lạ vào xóm thì đến xem rồi hỏi thăm chuyện nầy chuyện nọ.
Họ bảo tổ tiên của họ trốn loạn đời Tần Thủy Hoàng, dắt vợ con và người trong ấp đến ở chỗ hiểm trở xa xôi nầy, rồi không trở ra nữa. Từ đó cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Họ hỏi người đánh cá bây giờ là đời nào? Vì họ không biết có đời Hán nữa, nói chi đến đời Ngụy và đời Tấn.
Người đánh cá nhất nhất kể lại đủ cả sự tình. Họ nghe nói thì đều tỏ lòng đau xót và than thở.
Người đánh cá ở lại chơi vài ngày rồi từ tạ trở về. Trong bọn họ có người dặn: Đừng kể lại việc này cho người ngoài hay biết làm gì nhé!
Người đánh cá ra khỏi hang, đến bờ khe thì gặp lại chiếc thuyền cũ, bèn bơi thuyền trở về, bơi tới mỗi khúc rẽ thì đánh dấu chỗ đó. Về tới Quận, người đánh cá đến yết kiến quan Thái Thú, kể lại tất cả sự tình.
Viên Thái Thú sai người đánh cá trở lại suối hoa đào, tìm theo những chỗ có đánh dấu mà đi, nhưng các dấu đã bị mất hết, không tìm lại được đường cũ.
Ông Lưu Tử Ký, người ở đất Nam Dương tỉnh Hà Nam, là bậc cao sĩ, nghe kể chuyện, hân hoan tự mình băng rừng vượt suối đi tìm nơi đó, nhưng chưa tìm ra được thì ông bị bệnh mà chết. Kể từ đó, không ai hỏi thăm đường đi vào chỗ đó nữa.
Từ điển tích này, trong văn chương, người ta dùng các từ ngữ: Đào nguyên, Nguồn đào, suối hoa đào là để chỉ cảnh Tiên, nơi đó có phong cảnh tuyệt đẹp và người sống rất sung sướng, hạnh phúc.
 “Tri âm”
“Tri”: Biết, hiểu biết, quen biết. “Âm”: tiếng đàn.
“Tri âm”, nghĩa đen là nghe tiếng đàn biết được ý nghĩ của người đàn, nghĩa bóng là bạn bè thân thiết hiểu biết lòng dạ nhau
Từ chuyện Tử Kỳ tri âm Bá Nha thời Chiến Quốc, tri âm đã là nghĩa chung của một tình bạn thiết thân, thông hiểu được ý nhau.
Theo sách Lã thị xuân thu: "Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy" (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm , khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy.
Vào lúc Tấn, Sở đang giao hảo nhau. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của mình.
Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phím thử dâỵ Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng " bựt " khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng:
- Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.
Từ trên vách núi có tiếng vọng xuống:
- Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.
Bá Nha cười lớn:
- Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?.
Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:
- Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến...
Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn:
- Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?.
Giọng trên bờ bình thản vọng xuống:
- Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi. Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu chót.
Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp:
- Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây Dao cầm?
Tiều phu không ngập ngừng:
- Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậu Vua biết cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trơi đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn. Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa đục có thể dùng được. Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nước, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghị. Đàn gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm, lại có thêm một phím phụ tượng trưng cho tháng nhuận. Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi Dũ Lý, Bá Ấp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn). Về sau, khi Vũ Vương đánh nước Trụ, thêm một dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dâỵ Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm.
Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính thương:
- Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, thầy Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang giao động . Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng học trò, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này, hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?
- Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa
Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý tại non cao.
Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười:
- Tuyệt thay, ý chí cao vút. Ý tại non cao.
Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý tại lưu thủy.
Tiều phu khua tay xuống dòng nước:
- Trời nước bao la. Ý tại lưu thủy.
Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của mình như vậỵ Ông sai người hầu dẹp trà, bày tiệc rượu. Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi:
- Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán.
Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:
- Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên nàỵ Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.
- Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kể tài hèn đức bạc mà thôi. Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này.
- Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ
Tử Kỳ hai mươi bảy tuổi. Bá Nha trân trọng nói:
- Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổi. Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.
Chung Tử Kỳ khiêm nhượng đáp:
- Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.
- Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiện sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.
Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa. Bá Nha sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ. Rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.
Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đôi bạn đành phải chia tay. Bá Nha giọng run run, nhìn Tử Kỳ:
- Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rỡi hiền đệ. Hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm được một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.
Chung Tử Kỳ cũng không dấu được xúc động:
- Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.
- Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời. "Phụ mẫu tồn, bất khả viễn du", làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn được. Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:
- Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.
Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:
- Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.
Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chối. Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nổi lời tạm biệt.
Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm. Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời ; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi. Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên . Dọc đường. gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa:
- Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.
- Có Tập Hiền thôn thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào ?
- Thưa lão trượng, người Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?
Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn:
- Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc, ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời...
Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi:
- Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: " Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này" Con đường mà đại nhân vừa đi qua phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.
Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc "Thiên thu trương hận". Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩm và tiếng chim từ xa vọng về nghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:
- Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:
“Ức tính khi niên xuân
Giang thượng tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri ân nhân
Đản kiến nhất phân thổ
An nhiên thương ngã tâm
Bất giác lệ phân phân
Lai hoan khứ hà khổ
Giang ban khởi sầu vân.
Tử Ky, Tử kỳ hề !
Nhĩ, ngã thiên kim nghĩa
Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ
Thử khúc chung hề bất phụ đàn
Tam xích Dao cầm vị quân tử”
(Từ nhớ đến muà thu năm trước
Bến trường giang gặp bạn cố nhân
Năm nay lại đến Giang Tân
Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi
Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi
Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng
Ôi thương tâm, ôi thương tâm
Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi
Mây sầu thấp thoáng chân trời
Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau
Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi
Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can
Thôi từ nay, thôi phi'm đàn
Ngàn thu thôi hết mơ mòng cố nhân...)
Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mảnh, trụ ngọc, phím đồng rơi lả tả. Lão ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt:
“Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn
Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ?
Xuân phong mãn diện giai bằng hữu
Dục mịch tri âm, nan thượng nan”
(Dao cầm đập nát đau lòng phượng
Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai
Gió xuân bốn phía bao bè bạn
Khó thay tìm được bạn tri âm)
Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:
- Bá Kỳ Tử Nha đã y lời hẹn đến đây rồi. Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm.
Chung lão không từ chối. Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn.
Chữ ký của phangxehana





Giải thích một số thuật ngữ Trung Hoa I_icon_minitimeWed Apr 06, 2011 9:27 pm

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Giải thích một số thuật ngữ Trung Hoa

 
Các điển cố này hay lắm. Ngô Tự Lập có nói đại ý Văn học là một quá trình dụng điển
Bổ sung chút

“Ức tích khứ niên xuân
Giang thượng tằng hội quân
Kim nhật trùng lai phỏng
Bất kiến tri âm nhân'

Nhớ xưa xuân năm trước
Trên sông từng gặp anh
Hôm nay tôi trở lại
Chẳng thấy người tri âm

Chú ý dụng điển phải chính xác. Tri âm nhân lại thành ân nhân thì sai hẳn nghĩa câu thơ
Chữ ký của Thanhsamkhach




 

Giải thích một số thuật ngữ Trung Hoa

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT :: Văn hóa nghệ thuật thế giới-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất