CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
Tư sản dân quyền
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha I_icon_minitimeWed Apr 06, 2011 1:39 pm

phangxehana
lịch sử

Thành viên cấp 1

phangxehana

Thành viên cấp 1

Họ & tên Họ & tên : Nguyẽn Thị Én
Ngày tham gia Ngày tham gia : 11/10/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 32
Đến từ Đến từ : Nam Định
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : lịch sử
Điểm thành tích Điểm thành tích : 68
Được cám ơn Được cám ơn : 4

Bài gửiTiêu đề: Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha

 
1. Hoàn cảnh lịch sử (nguyên nhân)
Trước khi cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha diễn ra thì học thuyết Monroe đang chi phối ở Mỹ Latinh.
Sang thế kỷ XIX, tư tưởng tự do đã khuấy động nhân dân châu Mỹ La-tinh từ thời các thuộc địa Anh chiến đấu giành tự do. Chính lúc đó, Nga, Phổ và áo đã thiết lập Liên minh Thần thánh để bảo vệ họ trước các cuộc cách mạng. Chừng nào mà Liên minh Thần thánh giới hạn những hoạt động của họ trong phạm vi cựu thế giới thì điều đó không gây lo lắng cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhưng khi Liên minh tuyên bố ý định muốn phục hồi các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha thì người Mỹ bắt đầu lo âu.
Tháng 12/1823, khi biết hải quân Anh sẽ bảo vệ châu Mỹ La-tinh chống lại Liên minh Thần thánh và Pháp, Tổng thống Monroe đã nhân dịp gửi thông điệp hàng năm tới Quốc hội công bố những điều mà sau này người ta gọi là Học thuyết Monroe - chối từ chấp nhận bất cứ một sự mở rộng thống trị tiếp theo của châu Âu ở các nước châu Mỹ:
“Các lục địa châu Mỹ... từ nay trở đi không thể được coi là đối tượng của thực dân hóa trong tương lai do bất cứ một cường quốc châu Âu nào tiến hành.
Chúng ta phải coi bất kỳ toan tính nào về phần họ nhằm mở rộng hệ thống chính trị của họ tới bất cứ bộ phận nào của bán cầu này đều là nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh của chúng ta.
Chúng ta đã không can thiệp và sẽ không can thiệp vào những thuộc địa hay các xứ phụ thuộc nào của bất cứ cường quốc châu Âu nào. Nhưng với những chính phủ đã tuyên bố nền độc lập của mình và bảo vệ nền độc lập ấy và được chúng ta thừa nhận thì chúng ta phải coi bất kỳ một sự can thiệp nào nhằm mục đích áp chế họ hay kiểm soát số phận của họ bằng bất kỳ phương thức nào do bất cứ cường quốc châu Âu nào thực hiện đều thể hiện khuynh hướng thù nghịch đối với nước Mỹ”.
Học thuyết Monroe đã thể hiện tinh thần đoàn kết với các nền cộng hòa mới giành độc lập ở châu Mỹ La-tinh. Những dân tộc này đã công nhận tầm quan trọng của quan hệ chính trị với Hoa Kỳ bằng việc thiết lập các hiến pháp mới của mình theo mô hình của Bắc Mỹ xét trên nhiều phương diện.
Thực chất Học thuyết Monroe đã đưa ra lời cảnh báo đối với những người theo chủ nghĩa bành trước ở châu Âu đừng can dự vào công việc nội bộ của châu Mỹ. Nguyên thủy, tài liệu này nhắm đến việc mở rộng chủ nghĩa thực dân tại châu Mỹ La-tinh và vùng Caribê, cho rằng điều đó là đàn áp và không thể chịu đựng. Nhưng đến cuối thế kỷ XIX, một số cá nhân như Theodore Roosevelt đã diễn dịch Học thuyết Monroe theo cách cho rằng trách nhiệm của Hoa Kỳ là phải bảo đảm cho sự ổn định kinh tế ở Trung Mỹ, Caribê và Nam Mỹ, từ đó giúp cho các quốc gia này trả lại số nợ cho những kẻ thực dân.
Trong khi đó ở Cuba dân chúng đang có thái độ phản đối rộng khắp đối với chính sách cai trị độc đoán của Tây Ban Nha. Năm 1895, thuộc địa Cuba xảy ra một cuộc khởi nghĩa vũ trang nhỏ chống lại nhà cầm quyền Tây Ban Nha. Hỗ trợ tài chính cho lực lượng nổi dậy "Cuba Libre" đến từ các tổ chức bên ngoài thuộc địa, đặc biệt một số tổ chức có căn cứ tại Hoa Kỳ.
Năm 1896, thống đốc mới của Cuba, Tướng Valeriano Weyler, thề quyết đập tan quân nổi dậy bằng cách cô lập quân nổi dậy với dân chúng để làm cạn kiệt nguồn tiếp tế cho quân nổi dậy.
Đến cuối năm 1897, hơn 300.000 người Cuba đã bị di chuyển vào trong các trại tập trung do Tây Ban Nha kiểm soát. Những trại tập trung này trở thành những nơi bẩn thỉu đói rách và bệnh tật khiến khoảng một trăm ngàn người chết.
Một cuộc chiến tuyên truyền được những người Cuba lưu vong tung ra tại Hoa Kỳ, tấn công việc đối xử vô nhân đạo của Weyler đối với người dân Cuba. Cuộc chiến tuyên truyền này giành được sự đồng cảm của phần lớn dân chúng tại Hoa Kỳ. Weyler bị các phóng viên báo chí như William Randolph Hearst gọi là một tên "đồ tể". Báo chí Mỹ bắt đầu khích động cho một cuộc can thiệp với những câu chuyện về những tội ác của Tây Ban Nha đối với người dân Cuba.
Như vậy, có thể thấy, học thuyết Monroe của thế kỷ XIX đã đóng vai trò nền tảng chính trị tại Hoa Kỳ trong việc ủng hộ sự đấu tranh giành độc lập của Cuba từ Tây Ban Nha.
Vào tháng 1 năm 1898, những người Cuba trung thành với Tây Ban Nha gây ra một vụ náo động tại Havana. Ngay lập tức, ngày 25 tháng 1 năm 1898, chiến hạm USS Maine đã được Hoa Kỳ đưa đến Havana. Mối quan tâm lo lắng của Hoa Kỳ là những người Cuba thiên Tây Ban Nha vì họ luôn để lòng thù hằn đối với việc ủng hộ nền độc lập của Cuba ngày càng gia tăng tại Hoa Kỳ.
Vào 21 giờ 40 phút ngày 15 tháng 2 năm 1898, chiến hạm Maine chìm trong cảng Havana sau một vụ nổ làm chết 266 thủy thủ. Người Tây Ban Nha cho rằng sự kiện này xảy ra là do một vụ nổ từ bên trong chiến hạm nhưng theo một bản báo cáo của phía Mỹ thì cho rằng nó bị mìn đánh chìm.
Có đến bốn cuộc điều tra được tiến hành để xác định nguyên nhân gây ra vụ nổ. Tất cả các nhà điều tra đều đưa ra các kết luận khác nhau. Cả hai kết luận điều tra của Tây Ban Nha và Mỹ đều đi theo hai hướng khác nhau. Ý kiến của người Tây Ban Nha và những người Cuba trung thành kết luận bằng một giả thuyết rằng Hoa Kỳ có thể đã cố tình gây ra vụ nổ để có cớ gây chiến với Tây Ban Nha.
Theo sau vụ chiến hạm Maine bị nổ tung, những chủ báo chí như William Randolph Hearst đã đưa ra kết luận rằng chính những quan chức Tây Ban Nha tại Cuba là những người phải chịu trách nhiệm. Họ cho xuất bản giả thuyết này như một bằng chứng. Việc xuất bản báo chí theo cảm quan của họ đã châm ngòi lửa giận dữ của người Mỹ với những bài tường trình kinh ngạc nói về những hành động tàn ác mà Tây Ban Nha thực hiện tại Cuba. Quần chúng Mỹ kêu gào "Đừng quên chiến hạm Maine, đả đảo Tây Ban Nha!".
Tuy nhiên, trong nội bộ chính phủ Mỹ vẫn có những ý kiến trái ngược. Tổng thống William McKinley, Chủ tịch Hạ viện Thomas Brackett Reed và cộng đồng thương nghiệp chống đối lời kêu gọi chiến tranh ngày càng gia tăng của công chúng. Trong khi đó, bài phát biểu của Thượng nghị sĩ Redfield Proctor được đọc vào ngày 17 tháng 3 năm 1898 phân tích tỉ mỉ tình hình rồi kết luận rằng chiến tranh là hành động thích hợp duy nhất. Nhiều người trong cộng đồng thương nghiệp và tôn giáo trước đây từng chống đối chiến tranh nay lại quay sang chiều hướng ủng hộ. Ngày 11 tháng 4 tổng thống McKinley xin phép Quốc hội Hoa Kỳ gởi quân đến Cuba với mục đích kết thúc nội chiến ở đó.
Ngày 19 tháng 4, quốc hội thông qua nghị quyết chung ủng hộ nền độc lập của Cuba. Tuyên cáo bác bỏ bất cứ ý định nào nhằm sát nhập Cuba nhưng đòi hỏi Tây Ban Nha rút quân. Nghị quyết cũng cho phép tổng thống sử dụng tất cả lực lượng quân sự mà tổng thống cần để giúp Cuba giành độc lập từ Tây Ban Nha. Thượng viện Hoa Kỳ thông qua bản tu chính với 42 phiếu thuận và 35 phiếu chống vào ngày 19 tháng 4 năm 1898. Hạ viện Hoa Kỳ làm theo như vậy trong ngày hôm đó với 311 phiếu thuận và 6 phiếu chống. Tổng thống McKinley ký vào ngày 20 tháng 4 năm 1898 và tối hậu thơ được gởi đến Tây Ban Nha. Để đáp lại, Tây Ban Nha cắt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ và tuyên chiến vào ngày 23 tháng 4. Ngày 25 tháng 4, quốc hội tuyên bố tình trạng chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha.
2. Diễn biến
Cuộc chiến diễn ra trên hai mặt trận lớn: Mặt trận châu Á – Thái Bình Dương và mặt trận vùng Caribbe.
2. 1. Mặt trận châu Á – Thái Bình Dương
Chiến tranh nổ ra tại Phillipines và Guam. Trận chiến đầu tiên là ở vịnh Manila vào ngày 1 tháng 5 năm 1898. Phó đề đốc George Dewey chỉ huy Hải đoàn Á châu của Hải quân Hoa Kỳ trên chiến hạm USS Olympia, đã đánh bại hải đoàn Tây Ban Nha dưới quyền của đô đốc Patricio Montojo y Pasarón chỉ trong vòng vài giờ.
Với chiến thắng này hải đoàn của Dewey trở thành lực lượng hải quân duy nhất tại Viễn Đông không có căn cứ địa phương cho chính mình. Tuy nhiên, không chỉ đánh chìm hạm đội Tây Ban Nha mà hải đoàn này còn chiếm được cảng Manila.
Tiếp sau đó, phó đề đốc Dewey đã đưa Emilio Aguinaldo đang lưu vong tại Hồng Kông về Philippines để tập hợp người Philippine chống lại chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha. Hoa Kỳ đổ bộ lực lượng và người Philippine chiếm giữ phần lớn quần đảo vào tháng 6, trừ thành phố pháo đài Intramuros. Ngày 12 tháng 6 năm 1898, Aguinaldo tuyên bố Philippine độc lập.
Ngày 13 tháng 8, vì các tư lệnh Mỹ không biết lệnh ngừng bắn đã được ký kết giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ trong ngày hôm trước nên các lực lượng Mỹ tấn công và chiếm thành phố Manila từ tay Tây Ban Nha. Trận chiến này đánh dấu sự chấm dứt hợp tác giữa Mỹ và Philippine khi lực lượng Philippine bị ngăn cản tiến vào thành phố Manila. Hành động này gây nên sự căm phẫn sâu sắc trong lòng người Philippine và từ đó dẫn đến cuộc Chiến tranh Philippine – Mỹ sau đó.
Tại Guam, đại tá hải quân Henry Glass đang có mặt trên tuần dương hạm USS Charleston đã theo mật lệnh và chỉ thị tiến vào đảo Guam rồi chiếm giữ đảo. Ngày 20 tháng 6 đến Guam, ông khai hỏa đại bác và bắn lên đảo. Một sĩ quan Tây Ban Nha thiếu trang bị, không biết là chiến tranh đã được tuyên bố, tiến về phía chiến hạm Mỹ và xin mượn ít thuốc nổ để bắn pháo đáp lại lời chào của người Mỹ. Glass liền bắt giữ viên sĩ quan này làm tù binh. Sau khi hứa hẹn, viên sĩ quan này được lệnh quay trở lại đảo để thảo luận các điều kiện đầu hàng. Ngày hôm sau, 54 binh sĩ bộ binh Tây Ban Nha bị bắt và hòn đảo rơi vào tay Hoa Kỳ.
2. 2. Mặt trận vùng Caribê
Người Mỹ hoạch định chiếm thành phố Santiago de Cuba để tiêu diệt lục quân của Linares và hạm đội của Cervera. Để đến Santiago, họ phải vượt qua các phòng tuyến dày đặc của quân Tây Ban Nha ở Đồi San Juan và một thị trấn nhỏ tại El Caney. Các lực lượng Mỹ được quân nổi dậy người Cuba do tướng Calixto García lãnh đạo giúp đỡ.
Chiến dịch trên bộ đã diễn ra bắt đầu từ tháng 6. Từ 22 tháng 6 đến 24 tháng 6, quân đoàn V Hoa Kỳ dưới quyền tướng William R. Shafter đổ bộ ở Daiquirí và Siboney, phía đông Santiago, và thiết lập căn cứ hành quân của Mỹ. Một toán quân Tây Ban Nha đánh tẻ quân Mỹ gần Siboney vào ngày 23 tháng 6 rút lui về các vị trí giao thông hào đơn giản tại Las Guasimas. Một đơn vị tiền phương của lực lượng Mỹ dưới quyền tướng Joseph Wheeler không nghe theo lời chỉ dẫn của nhóm trinh sát người Cuba và ra lệnh tiến công một cách cẩn thận. Họ đụng độ và giao chiến với toán quân đi sau của Tây Ban Nha trong trận Las Guasimas vào ngày 24 tháng 6. Trận chiến kết thúc không phân thắng bại với phần lợi nghiêng về phía Tây Ban Nha. Quân Tây Ban Nha bỏ Las Guasimas theo kế hoạch rút lui về Santiago.
Lục quân Hoa Kỳ dùng những người chuyên đánh tẻ thời Nội chiến Hoa Kỳ đi đầu những mũi tiên phong. Tất cả bốn binh sĩ tình nguyện đi đầu các mũi tiến công đều bị giết chết. Trận Las Guasimas chứng tỏ cho Hoa Kỳ thấy rằng các chiến thuật thời nội chiến không còn hiệu quả để chống lại quân Tây Ban Nha là những người đã học hỏi được kinh nghiệm ẩn núp từ cuộc vật lộn của chính họ với quân nổi dậy Cuba và không bao giờ để lộ vị trí của họ trong lúc phòng thủ. Quân Tây Ban Nha cũng được hỗ trợ vào lúc đó bởi thuốc súng mới không khói mà khi họ bắn ra cũng không để lại dấu vết. Quân Mỹ chỉ có thể tiến công quân Tây Ban Nha bằng cách dùng nhóm 4 đến 5 người tiến công trong lúc những người khác nằm tại chỗ bắn yểm trợ.
Ngày 1 tháng 7, một lực lượng hỗn hợp khoảng 15.000 binh sĩ Mỹ gồm các trung đoàn bộ binh, kị binh và tình nguyện trong đó có Roosevelt và nhóm "Rough Riders" của ông cùng các lực lượng nổi dậy người Cuba tấn công 1.270 quân Tây Ban Nha phòng thủ dưới hào. Hơn 200 binh sĩ Hoa Kỳ thiệt mạng và gần 1.200 binh sĩ khác bị thương trong những trận đánh này. Hai ngày sau đó Cervera quyết định bỏ Santiago.
Các lực lượng Tây Ban Nha tại Guantánamo cũng bị Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và các lực lượng nổi dậy Cuba cô lập đến nỗi không biết là Santiago đang bị bao vây, và các lực lượng của họ ở phía bắc tỉnh cũng không chọc thủng các phòng tuyến Cuba. Tuy nhiên, lực lượng tiếp viện của Escario từ Manzanillo đã đánh vượt qua sự phản kháng quyết liệt của Cuba nhưng đến nơi quá trễ để tham gia giải cứu cuộc bao vây.
Sau các trận đánh Đồi San Juan và El Caney, cuộc tiến công của Mỹ dừng lại. Quân Tây Ban Nha thành công bảo vệ Đồn Canosa. Việc này giúp họ bình ổn phòng tuyến của họ và chặn đường vào Santiago. Quân Mỹ và Cuba buộc phải bắt đầu một cuộc bao vây đổ máu và bóp nghẹt thành phố.
Trong đêm, quân Cuba đào hàng loạt các giao thông hào về phía các vị trí của Tây Ban Nha. Sau khi hoàn thành, các giao thông hào này được giao cho các binh sĩ Hoa Kỳ. Quân Mỹ trong lúc bị tổn thất hàng ngày vì hỏa lực và bị bắn tỉa từ quân Tây Ban Nha lại tổn thất nhiều sinh mạng hơn vì kiệt sức do nắng gây ra và bệnh sốt rét. Tại vùng ven phía tây thành phố, tướng Cuba là Calixto Garcia bắt đầu công phá thành phố, làm cho các lực lượng Tây Ban Nha hoảng sợ và hoang mang bị trả thù.
Cùng thời điểm đó, các chiến dịch trên biển cũng diễn ra. Cảng lớn Santiago de Cuba là mục tiêu chính của các chiến dịch trên biển trong suốt thời gian chiến tranh.
Hạm đội của Hoa Kỳ tấn công Santiago cần có nơi trú ẩn để tránh mùa bão Đại Tây Dương. Vì thế vịnh Guantánamo với hải cảng tốt đã được chọn cho mục đích này. Cuộc tiến công chiếm vịnh Guantánamo xảy ra vào ngày 6 tháng 6 đến 10 tháng 6 năm 1898, ban đầu bằng cuộc tấn công của hải quân và sau đó là cuộc đổ bộ thủy quân lục chiến thành công với sự yểm trợ của hải quân.
Trận Santiago de Cuba vào ngày 3 tháng 7 năm 1898 là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Tây Ban Nha – Mỹ. Kết quả là Hải đoàn Caribbean của Tây Ban Nha (Flota de Ultramar) bị tiêu diệt.
Tháng 5 năm 1898, hạm đội Tây Ban Nha của đô đốc Pascual Cervera y Topete ban đầu được phát hiện nằm trong cảng Santiago là nơi hạm đội của ông trú ẩn tránh bị tấn công từ biển. Các lực lượng Tây Ban Nha và Mỹ đối đầu nhau trong khoảng 2 tháng. Khi hải đoàn Tây Ban Nha tìm cách rời cảng ngày 3 tháng 7, lực lượng Mỹ tiêu diệt hoặc làm mắc cạn 5 trong số 6 chiến hạm. Chỉ một chiến hạm Tây Ban Nha là tuần dương hạm mới và có tốc độ nhanh Cristobal Colón thoát nạn nhưng thuyền trưởng của chiến hạm này kéo cờ mình xuống và tự đánh đắm chiến hạm của mình khi lực lượng Mỹ cuối cùng đuổi theo kịp. 1.612 thủy thủ Tây Ban Nha gồm cả đô đốc Cervera bị bắt và bi đưa đến đảo Seavey, Kittery, Maine, và họ bị giam giữ từ 11 tháng 7 cho đến giữa tháng 9.
Trong suốt cuộc đối đầu, trợ lý công binh Hải quân Hoa Kỳ là Richmond Pearson Hobson được lệnh của chuẩn đô đốc William T. Sampson đánh chìm chiến hạm Merrimac của mình trong cảng để khóa chặt hạm đội Tây Ban Nha bên trong. Nhưng nhiệm vụ thất bại. Hobson và thủy thủ của ông bị bắt. Họ được trao đổi tù binh vào ngày 6 tháng 7.
Tại Puerto Rico, trong tháng 5 năm 1898, trung úy Henry H. Whitney thuộc đại đội pháo binh số 4 của Hoa Kỳ được phái đến với sứ mệnh trinh thám. Ông cung cấp bản đồ và các thông tin có liên quan đến lực lượng quân sự Tây Ban Nha về cho chính phủ Hoa Kỳ trước khi xâm chiếm Puerto Rico.
Ngày 10 tháng 5, các chiến hạm Hoa Kỳ đã xuất hiện ngoài duyên hải Puerto Rico.
Ngày 12 tháng 5, một hải đoàn gồm 12 chiến hạm Hoa Kỳ do chuẩn đô đốc William T. Sampson chỉ huy bắn phá San Juan. Suốt cuộc bắn phá, nhiều tòa nhà chính phủ bị trúng đạn.
Ngày 25 tháng 6, chiến hạm Yosemite phong tỏa cảng San Juan. Ngày 25 tháng 7, tướng Mỹ Nelson A. Miles cùng với 3.300 binh sĩ đổ bộ ở Guánica, và Chiến dịch Puerto Rico bắt đầu. Quân Mỹ gặp phải sự chống trả ngay lúc đầu cuộc xâm chiếm.
Trận chạm trán đầu tiên giữa quân Mỹ và Tây Ban Nha xảy ra tại Guanica. Cuộc chống cự bằng vũ trang có tổ chức đầu tiên xảy ra tại Yauco.Theo sau trận đánh này là các trận đánh Fajardo, Guayama, cầu sông Guamani, Coamo, Silva Heights và cuối cùng là trận Asomante.
Ngày 9 tháng 8 năm 1898, bộ binh và kị binh Mỹ đụng độ với quân Tây Ban Nha và quân trung thành Puerto Rico được trang bị với đại bác trên một ngọn núi có tên Cerro Gervasio del Asomante trong lúc quân Mỹ tìm cách tiến vào Aibonito. Các tư lệnh Mỹ quyết định rút lui và tập hợp lại để quay trở lại vào ngày 12 tháng 8 năm 1898 cùng với một đơn vị pháo binh. Các đơn vị Tây Ban Nha và quân trung thành người Puerto Rico bắt đầu phản công bằng hỏa lực đại bác do Ricardo Hernáiz chỉ huy. Tư lệnh Landcaster ra lệnh rút lui. Tất cả các hoạt động quân sự trên đảo Puerto Rico bị đình chỉ.
Với những cuộc bại trận tại Cuba và Philippines, cả hai hạm đội của Tây Ban Nha bị vô hiệu hóa nên Tây Ban Nha kêu gọi đối thoại hòa bình.
Ngày 12 tháng 8 năm 1898 nghị định hòa bình giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha được kí kết tại Washington D.C.
Hiệp ước hòa bình chính thức được ký tại Paris ngày 10 tháng 12 năm 1898 và được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn ngày 6 tháng 2 năm 1899. Nó có hiệu lực vào ngày 11 tháng 4 năm 1899
3. Kết quả
Cuộc chiến tranh diễn ra vô cùng nhanh gọn và chóng vánh. Tuy nhiên, cuộc chiến đã để lại tổn thất cho cả Cuba, Hoa Kỳ và Tây Ban Nha: Cộng hòa Cuba 10.665 chết; Hoa Kỳ 345 người chết, 1645 người bị thương, 2565 người bệnh tật; Tây Ban Nha 560 người chết, 300 – 400 người bị thương, 13000 người bệnh tật, và 6700 người bị bắt.
Hiệp ước hòa bình chính thức được ký tại Paris và được Thượng viện Hoa Kỳ phê chuẩn ngày 6 tháng 2 năm 1899. Hoa Kỳ giành được gần như tất cả các thuộc địa của Tây Ban Nha vào thời đó, gồm có Philippines, Guam, và Puerto Rico. Riêng Cuba, bị Hoa Kỳ chiếm đóng cho đến ngày 17 tháng 7 năm 1898, được thành lập chính phủ dân sự của chính mình và sau đó được Hoa Kỳ trao trả độc lập ngày 20 tháng 5 năm 1902. Tuy nhiên Hoa Kỳ áp đặt một số điều kiện hạn chế đối chính phủ mới của Cuba trong đó gồm có việc Cuba không được liên minh với các quốc gia khác và Hoa Kỳ dành quyền can thiệp vào Cuba cho chính mình. Hoa Kỳ cũng thiết lập hợp đồng thêu mướn vĩnh viễn Vịnh Guantanamo.
Ngày 14 tháng 8 năm 1898, 11.000 binh sĩ bộ binh được đưa đến chiếm đóng Philippines. Khi quân Mỹ bắt đầu thay thế Tây Ban Nha kiểm soát Philippines thì chiến tranh lại bùng nổ giữa các lực lượng Hoa Kỳ và Philippines dẫn đến Chiến tranh Philippines – Mỹ.











Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha đã đóng chiếc đinh cuối cùng vào cỗ quan tài đế chế toàn cầu Tây Ban Nha. Con tàu Mỹ Maine đã chìm cùng đế chế Tây Ban Nha. Vào cuối năm 1898, nước Mỹ vốn được khai sinh để chống lại đế quốc, lại thấy mình thống trị không chỉ Cuba mà còn cả Philippines, Puerto Rico, Guam và sau đó là Hawaii.
Giới truyền thông Hoa Kỳ đóng vai trò quan trọng dẫn tới chiến tranh. Cuộc trao đổi giữa Frederick Remington – một họa sĩ, phóng viên Mỹ và Hearst – ông trùm xuất bản thống trị giới truyền thông Mỹ, đã nói lên điều đó: Khi được cử tới Cuba, Frederick Remington đã thấy câu chuyện hoàn toàn khác so với những gì đang lan truyền ở Mỹ về sự cai trị hà khắc, dã man của đế chế Tây Ban Nha với người Cuba, nên người họa sĩ, phóng viên này đã viết thư cho ông Hearst: chẳng có chiến tranh nào cả. Cần được về. Còn câu trả lời nổi tiếng của ông Hearst là: cứ ở yên đó. Cậu vẽ các bức tranh, tôi sẽ vẽ chiến tranh.
Sau cuộc chiến với Tây Ban Nha, đến những năm 30 của thế kỉ XX, nước Mỹ tiến hành nhiều can thiệp vào các nước Mỹ La tinh trước đây nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Tây Ban Nha, biến khu vực Mỹ La tinh thành sân sau của nước Mỹ.
Ở một góc độ nào đó, các lợi ích kinh tế đóng vai trò lớn trong việc bành trướng lãnh thổ của Hoa Kỳ, nhưng đối với các nhà lập pháp đầy thế lực và đối với những nhà chiến lược nhiều ảnh hưởng thì mục đích chính là vị trí địa lý. Quần đảo Phillipines và Guam là nơi đặt hai cơ sở hải quân chiến lược của Mỹ tại Thái Bình Dương: Wake Island, Mid Way và American Samoa. Puerto Rico là bàn đạp quan trọng tại khu vực Caribê nơi có vị trí ngày càng quan trọng khi Mỹ đang toan tính về một kênh đào của khu vực Trung Mỹ.
Một điều nữa cần chú ý, nếu như trước chiến tranh, Mỹ dốc sức mở rộng lãnh thổ về miền Tây, quyền lực trên biển phát triển chậm, thì chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha là bước ngoặt của con đường quyền lực trên biển của Mỹ.
Như vậy, có thể thấy, những thập niên cuối của thế kỷ XIX, các tiếng nói chống chủ nghĩa đế quốc từ nhiều liên minh của những thành viên Đảng Dân chủ ở phía Bắc và các thành viên Cộng hòa cấp tiến vẫn vang lên không ngừng và mạnh mẽ. Điều này kiến cho công cuộc bành trướng của đế quốc Mỹ diễn ra chậm chạp và mang tính nước đôi. Các chính quyền mang tư tưởng thực dân thường quan tâm nhiều hơn tới vấn đề kinh tế và thương mại hơn là đến quyền lực chính trị. Nhưng trận chiến Mỹ - Tây Ban Nha năm 1898 đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ. Kể từ đây Hoa Kỳ đã hoàn toàn chấm dứt chủ nghĩa biệt lập, bước sang thời kỳ mới: bành trướng và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình ra toàn thế giới. Có thế coi đây chính là bước khởi đầu cho ham muốn bá chủ thế giới của Hoa Kỳ. Những nơi mà Mỹ đặt chân tới không phải đâu khác, mà chính là những vùng quan trọng về mặt chính trị, quân sự, để từ đó Mỹ làm bàn đạp vươn ra các vùng đất khác. Hoa Kỳ đã tỏ ra là một siêu cường chính của thế giới.
Cuộc chiến tranh có tính chất bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ, do đó đã có rất nhiều bộ phim về nó, tiêu biểu như: The Rough Riders, một phim câm năm 1927; Rough Riders, phim bộ truyền hình năm 1997; The Spanish – American war: First Intervention, phim tài liệu năm 2007.
Chữ ký của phangxehana




 

Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: TRI THỨC PHỔ THÔNG :: Lịch sử-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất