Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Uỷ viên danh dự Ban Điều hành Câu lạc bộ
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 138
Đến từ : Bình Dương
Điểm thành tích : 330
Được cám ơn : 20
Tiêu đề: Đề thi tuyển sinh Đại Học năm 2008 - Môn Lịch sử
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ CHÍNH THỨC
ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC NĂM 2008 Môn thi: LỊCH SỬ, khối C Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH Câu I (2,5 điểm)
Trình bày tác động của hai sự kiện lịch sử sau đây đối với cách mạng Việt Nam thời kì 1939 –1945: - Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939); - Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh (8-1945).
Câu II (2,5 điểm)
Tại sao Đảng và Chính phủ phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp vào ngày 19-12-1946 ? Nêu ngắn gọn đường lối kháng chiến do Đảng ta đề ra trong những năm 1946 - 1947.
Câu III (3,0 điểm)
Cuối năm 1974 – mùa Xuân 1975, sau mỗi thắng lợi lớn trên chiến trường, Đảng ta đã có những chủ trương, quyết định nào để sớm giải phóng hoàn toàn miền Nam?
PHẦN RIÊNG Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: IV.a hoặc IV.b
Câu IV.a. Theo chương trình KHÔNG phân ban (2,0 điểm)
Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Câu IV.b. Theo chương trình phân ban (2,0 điểm)
Sự ra đời và hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng.
------------------- HẾT------------------
Thu Jul 10, 2008 10:08 pm
SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
CỐ VẤN CHUYÊN MÔN
ChauTienLoc
Họ & tên : CHÂU TIẾN LỘC
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Sáng lập viên, Cựu Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ (từ tháng 06/2008 đến 01/2011)
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 823
Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
Điểm thành tích : 1969
Được cám ơn : 665
Tiêu đề: Re: Đề thi tuyển sinh Đại Học năm 2008 - Môn Lịch sử
GỢI Ý TRẢ LỜI ĐỀ THI MÔN LỊCH SỬ KỲ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG NĂM 2008 KHỐI C
Phần chung cho tất cả các thí sinh
Câu I (2,5 điểm)
Trình bày tác động của hai sự kiện lich sử sau đây đối với cách mạng Việt nam thời kỳ 1939-1945: - Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939) - Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh (8-1945)
* Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939):
- Ngay sau khi CTTG thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy” ra sức bóc lột nhân dân ta bằng cách tăng thêm thuế, để chuẩn bị chiến tranh. Bọn cường hào, địa chủ ở địa phương cũng nhân cơ hội đó thi nhau vơ vét để làm giàu. Cách mạng Việt Nam phải đường đầu với bọn phản động thuộc địa đang tăng cường đàn áp khủng bố cách mạng, truy bắt những người yêu nước, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với thực dân Pháp nói chung, bọn phản động thuộc địa nói riêng trở nên sâu sắc.
- Mùa thu năm 1940. phát xít Nhật kéo quân vào Đông Dương, thực dân Pháp đã đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Quân phiệt Nhật và thực dân Pháp cấu kết với nhau để cùng áp bức, bóc lột nhân dân ta đến tận xương tuỷ. Giặc Nhật bắt nhân dân ta đóng thóc tạ theo đầu người, đi lính, đi phu, xây hào…phục vụ nhu cầu chiến tranh của chúng. Sự thống trị của Nhật – Pháp đã đẩy các tầng lớp nhân dân ta vào tình trạng đói khổ cùng cực. Mâu thuẫn dân tộc vốn đã gay gắt càng thêm sâu sắc và quyết liệt.
- Trước khi CHTG thứ 2 bùng nổ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chỉ thị cho cán bộ đảng viên nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, chuyển công tác từ thành thị về nông thôn, phát triển cơ sở cách mạng ở nông thôn đồng thời chú trọng cả đến đô thị.
- Ngày 6 – 11 – 1939, hai tháng sau khi CTTG thứ hai bùng nổ, Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành TW Đảng được tổ chức, xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương độc lập. Tạm gác các vấn đề ruộng đất. HN chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc kể cả các cá nhân yêu nước ở Đông Dương để chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chủ nghĩa phát xít, giành độc lập hoàn toàn ở Đông Dương. Nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân Đông Dương nói chung đã đứng về phía nhân dân thế giới và quân Đồng minh cùng chống chủ nghĩa phát xít.
* Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh (8-1945):
- Sau sự kiện 9 – 3 – 1945 khi Nhật đảo chính Pháp, Ban thường vụ TW Đảng đã ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, bản chị thị đã xác định kẻ thù duy nhất của nhân dân ta lúc này là phát xít Nhật. Từ tháng 3/1945 đến tháng 8/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước càng nổ ra mạnh mẽ. Nhận định chính xác tình hình, Đảng ta đã nhìn thấy rõ việc Nhật đầu hàng Đồng minh sắp sửa diễn ra nên gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa từng phần ở các địa phương để tiến tới Tổng khởi nghĩa.
- Ngày 14/8/1945, Chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện, ngay lập tức Hội nghị toàn quốc của Đảng ta đã nhận định kẻ thù chính của nhân dân ta đã bị đánh bại, chính phủ bù nhìn trong nước hoang mang điêu đứng. Hội nghị cũng đã chỉ rõ chúng ta phải tiến lên đánh đổ hoàn toàn quân Nhật ở giành chính quyền ngay khi quân Đồng minh chưa vào lãnh thổ nước ta. “Thời cơ ngàn năm có một” đã tới. Hội nghị quyết định tiến hành Tổng khởi nghĩa. Và Tổng khởi nghĩa đã diễn ra, quân ta nhanh chóng và dễ dàng giành thắng lợi và quyền làm chủ ở tất cả các địa phương chỉ trong vòng 15 ngày. Như vậy sự kiện Nhật đầu hàng Đồng minh chính là thời cơ trực tiếp để cho ta giành thắng lợi quyết định trong Tổng khởi nghĩa.
Câu II (2,5 điểm)
Tại sao Đảng và Chính phủ phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp vào ngày 19-12-1946? Nếu ngắn gọn đường lối kháng chiến do Đảng ta đề ra trong những năm 1946-1947.
* Đảng và Chính phủ quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc vì:
- Sau Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9-1946, ta thực hiện nghiêm chỉnh, nhân dân ta muốn hòa bình để xây dựng đất nước…Nhưng Pháp đã bội ước và tăng cường các hành động khiêu khích…Từ ngày 20 đến ngày 27-11-1946, quân Pháp chiếm đóng Hải Phòng, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc.
- Từ đầu tháng 12 năm 1946, quân Pháp liên tiếp gây xung đột với công an và tự vệ của ta…Ngày 17-12-1946, chúng bắn đại bác vào khu phố Hàng Bún, chiếm trụ sở Bộ Tài chính và một số cơ quan khác của ta…Ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta buộc ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng…Trước những hành động xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con đường là cầm vũ kháng chiến để bảo vệ độc lập tự do.
- Bên cạnh tình hình đó nhận thấy sự chuẩn bị lực lượng của ta đến thời điểm này cũng đã có thể đủ sức chiến đấu với thực dân Pháp ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định phát động toàn quốc kháng chiến…Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
* Nội dung đường lối kháng chiến:
- Đường lối kháng chiến của Đảng thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thượng vụ Trung ương Đảng và được giải thích cụ thể trong cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
- Kháng chiến toàn dân: Nghĩa là mọi người dân đều tham gia đánh giặc , không phân biệt già, trẻ, gái trai, thành phần dân tộc…Mỗi người Việt Nam là một chiến sĩ…Bởi so sánh lực lượng lúc đầu ta yếu hơn địch về quân sự, kinh tế nhưng ta chiến đấu vì chính nghĩa, mọi người dân đều có tinh thần yêu nước, căm thù giặc, ai cũng một lòng kháng chiến. Vì vậy, cần phải huy động toàn dân. Một khi toàn dân tham gia kháng chiến thì thực dân Pháp đặt chân đến đâu cũng đều bị dân ta đánh và chính nhân dân là nguồn cung cấp sức người, sức của dồi dào cho cuộc kháng chiến….
- Kháng chiến toàn diện: Nghĩa là kháng chiến về mọi mặt: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao…Bởi vì địch đánh ta không chỉ về quân sự mà còn đánh ta trên nhiều lĩnh vực khác: phá hoại kinh tế của ta, tìm cách làm cho ta suy yếu về chính trị, dụ dỗ, ru ngủ dân ta, nhất là thanh thiếu niên quên đi nỗi nhục mất nước bằng cách truyền bá văn hoá đồi truỵ, tìm cách cô lập nước ta với quốc tế…Mặt khác, ta vừa kháng chiến lại vừa phải kiến quốc, xây dựng chế độ quân chủ nhân dân…
- Kháng chiến lâu dài: Sở dĩ như vậy là vì, trên thực tế vào lúc đầu chiến tranh, địch mạnh hơn ta rất nhiều về quân sự, chúng có cả một đội quân xâm lược nhà nghề, trang bị hiện đại, vũ khí tối tân, lại có các đế quốc khác giúp đỡ. Âm mưu của chúng là đánh nhanh thắng nhanh để kết thúc chiến tranh. Ngược lại, quân đội ta còn non trẻ, vũ khí thô sơ. Ta đánh lâu dài để vừa đánh, vừa tiêu hao dần lực lượng địch, phát triển dần lực lượng của ta, đợi đến khi ta mạnh hơn địch mới đánh bại được chúng.
- Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: nghĩa là, lấy chính sức người, sức của bản thân và của toàn dân tộc, để phục vụ kháng chiến nhằm phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc; tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế nhưng không ỷ lại vào sự giúp đỡ đó.
- “Lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là quan điểm xuyên suốt trong tiến trình cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Đây là con đường duy nhất đúng để phát huy tiềm năng vốn có của dân tộc: truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự cường…Sức mạnh nội sinh một khi được khơi dậy thì sự giúp đỡ của bên ngoài mới được phát huy. Hơn nữa, chỉ khi biết dựa vào chính mình thì mới không trông chờ, ỷ lại.
- Bốn mặt trên đây của đường lối kháng chiến là một thể thống nhất có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Đường lối kháng chiến đúng đắn đó được tiếp tục bổ sung trong suốt quá trình của cuộc kháng chiến, đã có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc cách mạng.
Câu III (3,0 điểm)
Cuối năm 1974 – mùa Xuân 1975, sau mỗi thắng lợi lớn trên chiến trường, Đảng ta đã có những chủ trương, quyết định nào để sớm giải phóng hoàn toàn miền nam?
* Cuối năm 1974 đầu năm 1975 có hai thắng lợi quan trọng:
Chiến dịch Đông Xuân 74-75, trọng tâm là Đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, giành được nhiều đất và giải phóng được nhiều dân. Địch phản ứng yếu ớt.
Thắng lợi Phước Long (6-1-1975) đã loại khỏi vòng chiến hơn 3000 tên địch, giải phóng hoàn toàn đường 14 và thị xã Phước Long với 50.000 dân
- củng cố quyết tâm chiến lược bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch 2 năm 1975 – 1976 giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cụ thể là năm 1975 tranh thủ thời cơ bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo điều kiện để đến năm 1976 tiến hành tổng côn kích – tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.
- Bộ Chính trị nhận định và chỉ rõ: “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối 1975 thì ngay lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975”
* Mùa xuân 1975
- Sau chiến dịch Tây Nguyên tháng 3 năm 1975 Bộ chính trị đưa ra chủ trương chuyển cuộc tiến công chiến lược phát triển thành cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam à Để giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam trước mùa mưa.
Thu Jul 10, 2008 10:09 pm
SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
CỐ VẤN CHUYÊN MÔN
ChauTienLoc
Họ & tên : CHÂU TIẾN LỘC
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Sáng lập viên, Cựu Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ (từ tháng 06/2008 đến 01/2011)
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 823
Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
Điểm thành tích : 1969
Được cám ơn : 665
Tiêu đề: Re: Đề thi tuyển sinh Đại Học năm 2008 - Môn Lịch sử
Phần Riêng – Thí sinh chỉ được làm 1 trong 2 câu: IV. a hoặc IV.b
Câu IV.a. Theo chương trình Không phân ban (2,0 điểm)
Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
* Sự ra đời
Sự ra đời của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên trong tình hình mới (các phong trào yêu nước lần lượt thất bại…) gắn liền với công lao động của Nguyễn Ái Quốc.
- Sau khi rời Liên Xô về đến Trung Quốc (11 – 11-1924) (với ý định về nước thâm nhập vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập), Nguyễn Ái Quốc đã liên lạc với các nhà yêu nước Việt Nam tại Quảng Châu, mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ; đến tháng 6 – 1925, cùng với Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn… thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoang; báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận.
* Tổ chức và hoạt động
Sau khi ra đời, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã công bố Chương trình, Điều lệ, thể hiện rõ lập trường chính trị cũng như nguyên tắc tổ chức của mình.
Trong Chương trình hành động, Hội tuyên bố mục đích là làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan ách thống trị của thưucj dân Pháp, giành độc lập cho xứ sở), rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc) và thực hiện chủ nghĩa cộng sản.
Về tổ chức, Hội có 5 cấp: Tổng bộ, Kì bộ, Tỉnh bộ, Huyện bộ và Chi bộ (ở trong và ngoài nước) hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Mặc dù Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chưa phải là một Đảng Cộng sản, nhưng đường lối chính trị, Chương trình hành động và Điều lệ của Hội đã thể hiện rõ quan điểm lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Đièu này được thể hiện rõ trong các ý sau đây:
- Hội chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc rồi làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Thành lập chính phủ công nông binh, xóa bỏ tư bản, xây dựng xã hội Cộng sản Việt Nam và trên thế giới. Sau khi thành lập chính phủ công nông binh sẽ thực hiện các quyền tự do dân chủ, xóa bỏ bóc lột, bất công, thực hiện ngày làm 8 giờ cho công nhân và đem lại ruộng đất cho dân cày…
- Đoàn kết với giai cấp vô sản và phong trào cách mạng thế giới.
- Để tuyên truyền vận động quần chúng, Hội ra tuần báo thanh niên.
Phái người về nước vận động đưa người sang Quảng Châu để bồi dưỡng về chính trị, tổ chức. Trong 3 năm từ 1925 đến 1927, Hội đã huấn luyện được 75 hội viên, giảng viên chính là Nguyễn Ái Quốc. Ngoài ra, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn là giáo viên phụ trách.
Ngoài việc mở các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, hội viên của Hội còn được gửi đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (của Quốc dân Đảng Trung Quốc). Kết thúc các lớp đào tạo, phần lớn cán bộ được đưa về nước hoạt động trong phong trào công nhân, nông dân.
- Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu được xuất bản thành cuốn sách Đường Cách Mệnh.
Cuốn sách tập trung phác họa và chỉ ra phương hướng đấu tranh để giải phóng dân tộc và nhân dân thoát khỏi ách nô lệ. Những điểm chính của tác phẩm trả lời các vấn đề then chốt như: “Cách mệnh là gì?”, “Có mấy thứ cách mệnh?”, “Cách mệnh Việt Nam và cách mệnh thế giới”…
- “Báo Thanh niên” và cuốn “Đường cách mệnh” đã góp phần vũ trang lí luận cách mạng cho các cán bộ hội Việt Nam, cách mạng thanh niên, tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng.
- Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã có gần 300 hội viên, năm 1929 phát triển lên 1700 hội viên, kể cả dự bị là 3000 người.
- Từ cuối năm 1928, sau khi có chủ trương vô sản hóa, nhiều cán bộ của Hội đã đi vào các nhà máy, xí nghiệp để tuyên truyền vận động cách mạng (phân tích thêm ý nghĩa của chủ trương vô sản hóa: hội viên của Hội được rèn luyện, để trở thành những người cộng sản chân chính; làm cho phong trào quần chúng phát triển, trình độ giác ngộ được nâng cao…)
Câu IV.b. Theo chương trình phân ban (2,0)
Sự ra đời và hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng
*Sự ra đời
Bộ phận hạt nhân đầu tiên của Việt Nam Quốc dân Đảng là nhóm Nam Đồng thư xã, một nhà xuất bản tiến bộ, do Phạm Tuấn Tài lập ra đầu năm 1927, tại nhà số 129, phố Trúc Bạch, Hà Nội. Dần dần, cơ sở Nam Đồng thư xã đã trở thành nơi thu hút và tụ họp của một số trí thức, thanh niên, sinh viên (trong đó có Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính,...).
Lúc đầu, nhóm này chưa có đường lối chính trị rõ rệt. Nhưng về sau do sự phát triển của phong trào dân tộc dân chủ và ảnh hưởng của tư tưởng tư sản từ bên ngoài dội vào, nhất là ảnh hưởng của chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, đã dẫn đến sự ra đời của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927).
* Tổ chức và hoạt động
- Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn tài, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính sáng lập.
Lúc mới ra đời, Việt Nam Quốc dân Đảng chưa xác định được tôn chỉ, mục đích rõ rệt, chỉ nêu chung chung: trước làm cách mạng quốc gia, sau làm cách mạng thế giới.
- Năm 1928, Việt Nam Quốc dân Đảng xác định tôn chỉ của Đảng là “chủ nghĩa xã hội dân chủ” với mục đích: làm cách mạng dân tộc, xây dựng dân chủ, giúp đỡ các dân tệc bị áp bức.
- Năm 1929, Việt Nam Quốc dân Đảng lại nêu ra nguyên tắc : “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”.
Cho đến thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vụ trang, trước khi nổ ra cuộc bạo động ở Yên Bái, Việt Nam Quốc dân Đảng lại mô phỏng theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, nhưng những nguyên tắc và chính sách có tính cách mạng đã bị loại bỏ. Việt Nam Quốc dân Đảng chỉ ủng hộ chủ trương: “cách mạng dân tộc”, “thiết lập dân quyền”, còn đối với các nguyên tắc “liên Nga”, “liên Cộng”, “phù trợ công nông”, “Bình quân địa quyền” thì không nhắc tới. Như vậy, cho đến cuối năm 1929, Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn không có một cương lĩnh, thể hiện rõ mục đích và lập trường giai cấp của mình.
- Về tổ chức: Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương xây dựng 4 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ và Chi bộ, nhưng chưa bao giờ tổ chức thành một hệ thống trong cả nước.
Thành phần đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng rất phức tạp, gồm học sinh, công chức, tư sản, thân hào, phú nông, địa chủ, binh lính, sĩ quan người Việt trong quân đội Pháp...
- Về phương pháp cách mạng: Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương tiến hành bạo động vũ trang, ít chú ý đến tuyên truyền, vận động. Đảng không có cơ quan ngôn luận hoặc tài liệu, văn kiện chính thức nào để giải thích tôn chỉ, mục đích của mình, do đó dẫn tới việc kết nạp đảng viên một cách bừa bãi, thiếu cơ sở chuẩn mực, đồng thời gây nên tình trạng mơ hồ về lập trường chính trị của Đảng.
Do không có lý luận cách mạng làm cơ sở cho đường lối và phương pháp đấu tranh nên hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng thường thiên về quân sự (lấy lực lượng binh lính người Việt trong quân đội Pháp làm chủ lực); nặng nề về ám sát, khủng bố cá nhân.
Hậu quả là bị thực dân Pháp khủng bố, đàn áp rất dã man, khiến Việt Nam Quốc dân Đảng lâm vào tình thế bị động đối phó, hoạt động của Đảng gặp rất nhiều khó khăn.
Điển hình nhất là nhân vụ giết chết tên trùm mộ phu Ba danh (9-2-1929), thực dân Pháp đã “cất một mẻ lớn”, bắt nhiều đảng viên, làm cho Việt Nam Quốc dân Đảng có nguy cơ bị tan rã hoàn toàn.
Bị động trước tình thế, mặc dù lực lượng đang bị tổn thất nặng, các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng đã quyết định phát động khởi nghĩa vào tháng 2-1930 và bị thất bại mau chóng.
Tóm lại, Việt Nam Quốc dân Đảng về căn bản là một tổ chức theo mô hình Quốc dân Đảng ở Trung Quốc. Nó đại diện quyền lợi và tư tưởng tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên.
Vì thiếu một cơ sở kinh tế và xã hội đủ mạnh làm chỗ dựa, nên Việt Nam Quốc dân Đảng không đưa ra được một đường lối chính trị độc lập. Thêm vào đó, sự yếu kém về tổ chức, lãnh đạo đã khiến cho tổ chức này không đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Phản ánh tính non kém, không vững chắc qua phong trào dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam.
- Chứng tỏ khuynh hướng này không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc, không đủ sức vượt qua sự đàn áp của kẻ thù để tồn tại và phát triển.
- Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái đã chấm dứt vai trò lịch sử của Việt Nam Quốc dân Đảng với tư cách là một chính đảng cách mạng ở nước ta.
(Theo Hocmai.vn)
Sat Jul 12, 2008 10:19 pm
CỐ VẤN CHUYÊN MÔN
Khai Tam hungson
Họ & tên : Nguyễn Hùng Sơn
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Uỷ viên danh dự Ban Điều hành Câu lạc bộ
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 138
Đến từ : Bình Dương
Điểm thành tích : 330
Được cám ơn : 20
Tiêu đề: Re: Đề thi tuyển sinh Đại Học năm 2008 - Môn Lịch sử
Đáp án chính thức của Bộ GD-ĐT. Các bạn click vào link sau để xem chi tiết đáp án :