Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!
ĐIỀU HÀNH VIÊN
Khánh Trang
Họ & tên : Trang
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Phó Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ - Trưởng ban Điều hành Diễn đàn
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 20/02/2010
Tổng số bài gửi : 743
Đến từ : Đăk Lăk
Sở trường/ Sở thích : Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!
Điểm thành tích : 1281
Được cám ơn : 208
Tiêu đề: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản
Đầu năm 1848, một văn kiện lịch sử chấn động thế giới ra đời. Đó là bản ''Tuyên ngôn Đảng Cộng sản'': Những năm 30 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân các nước châu Âu phát triển rất nhanh, tuy vậy chưa hình thành một khối thống nhất, chưa có sự lãnh đạo của một chính đảng cách mạng. Giai cấp vô sản chưa hiểu rõ lý thuyết khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư bản, về nguồn gốc bị bóc lột, về sứ mệnh lịch sử và về con đường tự giải phóng cho mình. Do đó, các cuộc đấu tranh của họ luôn bị thất bại. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân, Mác và Ăng- ghen đã tiến hành nghiên cứu lý luận khoa học và xây dựng mối liên hệ rộng rãi với những đoàn thể công nhân của các nước. Mác và Ăng-ghen đặc biệt chú trọng đến một đoàn thể cách mạng bí mật của những công nhân thủ công Đức sống lưu vong ở Pa-ri có tên còn gọi là ''Đồng minh những người chính nghĩa''. Sau khi Pa-ri trở thành trung tâm, đoàn thể bí mật này mở rộng sang Luân Đôn, sau đó phát triển ở Thụy Sĩ, Đức và Pháp, bắt đầu trở thành một tổ chức công nhân mang tính chất quốc tế.
Nhân vật tiêu biểu của đồng minh này là Vai-tơ-lin, người Đức, từ lâu ông đã vô cùng căm ghét chủ nghĩa tư bản, muốn thực hiện một ''chủ nghĩa cộng sản bình quân'' và hy vọng có thể dựa vào âm mưu bí mật bạo động của một số ít người để thực hiện điều đó. Tư tưởng này có ảnh hưởng rất lớn trong phong trào công nhân thời bấy giờ. Mác và Ăng-ghen thấy rằng, muốn làm cho ''Đồng minh những người chính nghĩa'' phù hợp với yêu cầu cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, cần phải từ bỏ quan điểm về chủ nghĩa cộng sản không tưởng của Vai-tơ-lin.
Mùa xuân 1846, Vai-tơ-lin đến Bruc-xen, thủ đô nước Bỉ gặp Mác và trình bày quan điểm của mình: “Tôi cho rằng sự tự do tương ái của con người là cơ sở của xã hội cộng sản, chỉ cần chúng ta có một phương án như vậy để mọi người làm theo là được''.
Mác nghe Vai-tơ-lin nói vậy đã trả lời: ''Vậy làm thế nào để đánh đổ chế độ xã hội cũ? Ông không chủ trương dùng bạo lực sao?” Vai-tơ-lin điềm nhiên trả lời: ''Chuyện đó để bọn ăn mày, bọn kẻ cướp và bọn tội phạm làm, còn công nhân chỉ cần tổ chức các cơ cấu phúc lơi và nhà ăn chung, xây dựng công xã tự do tương ái, khiến mọi người đều bình đẳng. Theo quan điểm đó cho nên ngọn cờ của ''Đồng minh những người chính nghĩa” mới mang khẩu hiệu: ''Mọi người đều là anh em''”.
Mác nói: “Tôi biết rất nhiều người trong ''Đồng minh những người chính nghĩa'' tin vào chủ nghĩa cộng sản bình quân của ông, nhưng ông không thể thuyết phục giai cấp tư sản đem tài sản và quyền lực của mình phân phối đều cho mọi người. Xin nói ngay rằng đó là ảo tưởng. Hiện nay, cái mà công nhân cần là lý luận và đường lối chính xác chứ không phải là tình cảm và nguyện vọng. Chỉ có tiến hành cách mạng vô sản mới lật đổ được chế độ tư bản. Đây là con đường duy nhất đúng đắn''.
Mác và Vai-tơ-lin không thể đi đến thống nhất khi hai bên hoàn toàn khác nhau về tư tưởng lý luận.
Mấy tháng sau, Mác và Ăng-ghen thành lập ở Bruc-xen ''Uỷ ban thông tấn cộng sản''. Ngay sau đó, Uỷ ban đã liên lạc với nhiều chi bộ của ''Đồng minh những người chính nghĩa”. Trong một cuộc họp của Uỷ ban, Mác và Vai-tơ-lin đã tranh luận công khai. Khai mạc cuộc họp, Ăng-ghen tuyên bố: ''Cần phải có một luận điểm chung làm căn cứ cho hành động của những người cộng sản''. Vai-tơ-lin nghe xong lập tức phát biểu, cho rằng phải động viên công nhân còn tuyên truyền lý luận không phải là chuyện quan trọng”. Mác chất vấn: ''Vai-tơ-lin, ông luôn mồm nói phải động viên, vậy thử hỏi, ông căn cứ vào đâu để chứng minh hoạt động đó là đúng, và căn cứ vào đâu để xác định các hoạt động sau này?''
Trước hàng loạt câu hỏi của Mác, Vai-tơ-lin tỏ ra lúng túng và không thể trả lời được. Lúc bấy giờ Mác mới nói một cách nghiêm túc: ''Cái mà giai cấp vô sản cần là lý luận khoa học, chứ không phải là tình cảm ngây thơ''. Ông nhắc nhở mọi người rằng công tác quan trọng nhất là dùng lý luận đúng đắn, khoa học để vũ trang cho công nhân. Chỉ có như vậy mới làm cho họ nhận rõ những chủ trương sai lầm, kể cả cái ''chủ nghĩa cộng sản bình quân'' của Vai-tơ-lin. Cả hội trường vỗ tay nhiệt liệt, biểu thị sự đồng tình với quan điểm của Mác.
Mùa xuân năm 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập “Đồng minh những người chính nghĩa” ở Luân Đôn và tiến hành cải tổ tổ chức này. Ít lâu sau, Đồng minh triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ nhất.
Tại Đại hội này, căn cứ vào đề nghị của Mác và Ăng-ghen, ''Đồng minh những người chính nghĩa'' đổi tên thành “Liên đoàn nhũng người cộng sản'' và thông qua cương lĩnh mới, lấy khẩu hiệu ''Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại'' thay thế cho khẩu hiệu mơ hồ: ''Mọi người đều là anh em''.
Mùa thu năm đó, Liên đoàn những người cộng sản triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai. Các đại biểu đều thấy cần phải có một tuyên ngôn làm cương lĩnh cho hoạt động của Liên đoàn. Mác và Ăng-ghen đã bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn. Tháng 2 năm 1848, ''Tuyên ngôn Đảng Cộng sản'' chính thức được công bố tại Luân Đôn.
Sự ra đời của ''Tuyên ngôn Đảng Cộng sản'' đã gây chấn động toàn thế giới. Tuyên ngôn đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản, chứng minh quy luật tất yếu chế độ tư bản sẽ bị diệt vong và chế độ cộng sản sẽ thắng lợi. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng- ghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác vẫn là kim chỉ nam dẫn đường.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về đảng và xây dựng đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng đảng của Đảng ta. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu trong tất cả các giai đoạn cách mạng. Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo. Tư tưởng về sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp trong Tuyên ngôn trở thành cơ sở cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.
Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản chất lập trường quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết luận đó vận dụng trong công tác phát triển đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần. Những tư tưởng quan điểm về xây dựng đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong công tác xây dựng đảng của Đảng ta.
Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!
ĐIỀU HÀNH VIÊN
Khánh Trang
Họ & tên : Trang
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Phó Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ - Trưởng ban Điều hành Diễn đàn
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 20/02/2010
Tổng số bài gửi : 743
Đến từ : Đăk Lăk
Sở trường/ Sở thích : Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!
Điểm thành tích : 1281
Được cám ơn : 208
Tiêu đề: Re: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản
. Tư tưởng chủ yếu và nội dung của tác phẩm
Lý luận về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản khẳng định rằng, giai cấp vô sản không thể giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội.
Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không tổ chức thành chính đảng của giai cấp, Đảng được hình thành và phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Quan điểm cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân được Mác và Ăngghen trình bày rõ trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Nội dung Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày thành bốn chương. Ngoài ra, mỗi lần xuất bản, hai ông còn viết lời tựa để thuyết minh và làm rõ hơn nội dung tư tưởng của Tuyên ngôn (bổ sung nội dung Tuyên ngôn).
Chương I: Tư sản và vô sản
1. Sự phát triển của xã hội loài người:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp bức bóc lột và giai cấp bóc lột.
Đến xã hội tư bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù địch với nhau, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản của sự vận động của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó đưa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản.
2. Vị trí lịch sử của giai cấp tư sản
Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, những công trường thủ công được thay thế bằng những xí nghiệp hiện đại, những chủ công trường thủ công đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là những nhà tư sản hiện đại.
Khi mới ra đời, giai cấp tư sản là lực lượng cách mạng có một vai trò hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất đang lên, giai cấp tư sản đã làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp phong kiến quý tộc, giành địa vị thống trị.
Sau khi nắm được chính quyền nhà nước, giai cấp tư sản liền phá hủy những quan hệ sản xuất phong kiến, gia trưởng, thuần phác, thiết lập hệ thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Chưa đầy một thế kỷ, giai cấp tư sản thống trị đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.
Để đáp ứng yêu cầu của sản xuất và trao đổi, giai cấp tư sản đã thẳng tay xóa bỏ tình trạng cát cứ, phong kiến. Trên cơ sở đó, đưa đến sự tập trung về kinh tế chính trị, hình thành một quốc gia dân tộc thống nhất, phục vụ cho lợi ích của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản thiết lập thị trường thế giới. Đồng thời, chúng buộc các dân tộc chậm phát triển phải du nhập cái gọi là văn minh tư sản, làm nảy nở nền văn hóa thế giới.
Giai cấp tư sản đã thiết lập nền dân chủ tư sản. Tuy là nền dân chủ cắt xén, nhưng so với chế độ quân chủ chuyên chế thì đó là một tiến bộ trong lịch sử.
Giai cấp tư sản đã tạo điều kiện cho sự phát triển của khoa học - kỹ thuật. Đồng thời sẽ xóa bỏ tất cả những gì không phù hợp với lợi ích của bản thân giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên chỉ ra cho chúng ta thấy rõ loài người có khả năng làm được những gì.
Vốn có bản chất là một giai cấp tư hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng của giai cấp tư sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp tư sản chỉ làm đơn giản hóa giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. Nó phân chia xã hội ra làm hai phe thù địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đấu tranh nảy sinh ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời.
Giai cấp tư sản không những đã rèn vũ khí để giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản.
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và sự ra đời của Đảng Cộng sản
Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là điều mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản do vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.
Giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị phân hóa, suy tàn và tiêu vong. Chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng với sự phát triển của công nghiệp. Giai cấp vô sản được tuyển lựa trong tất cả các giai cấp trong dân cư. Sự tiến bộ của đại công nghiệp còn đẩy từng bộ phận trong giai cấp thống trị vào hàng ngũ giai cấp vô sản, bộ phận ấy cũng đem lại cho giai cấp vô sản những yếu tố tiến bộ. Hơn nữa, khi đấu tranh chống chế độ phong kiến, giai cấp tư sản buộc phải kêu gọi sự giúp đỡ của giai cấp vô sản, và do đó, đã lôi cuốn giai cấp vô sản vào cuộc vận động chính trị, nghĩa là đã cung cấp cho giai cấp vô sản những yếu tố tri thức chính trị phổ thông, những vũ khí mà sau này giai cấp vô sản sẽ sử dụng để chống lại giai cấp tư sản.
Giai cấp vô sản không có tài sản, phải bán sức lao động cho tư sản, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường. Những người vô sản chẳng có cái gì là của mình để bảo vệ, họ phải phá hủy hết thảy những cái gì từ trước tới nay vẫn bảo đảm và bảo vệ cho chế độ tư hữu.
Giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng, còn các giai cấp trung gian mang tính bảo thủ, hơn thế họ còn là phản động, tìm cách làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại. Đoàn kết thống nhất là một thuộc tính cơ bản của giai cấp vô sản để đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Giai cấp vô sản luôn bị áp bức cùng cực bởi giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đã không đảm bảo cho giai cấp vô sản những điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho họ có thể sống được trong vòng nô lệ. Như vậy, có nghĩa là, sự tồn tại của giai cấp tư sản không còn tương dung với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó, “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Song, để bảo đảm bảo cho sự thắng lợi đó, giai cấp vô sản phải có những điều kiện đảm bảo cho công cuộc tự giải phóng mình. Trong Lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888, Ph.Ăngghen đã chỉ ra điều đó: “Chính do bản thân các sự biến và do những thành bại trong cuộc đấu tranh chống tư bản - do những thất bại nhiều hơn là do những thành công - mà công nhân không thể không cảm thấy rằng tất cả các môn thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng, họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy tường tận những điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp công nhân”. Điều kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử.
Những cuộc đấu tranh đã tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết thành tổ chức. Sự tổ chức như vậy thành chính Đảng. Sự tồn tại, phát triển của Đảng vì sứ mệnh của giai cấp vô sản. Đảng kết thúc vai trò khi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản hoàn thành.
Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của mình giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công, nông dân. Song, khi sắp rơi vào hàng ngũ vô sản họ đã tự nguyện từ bỏ quan điểm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Hơn nữa, khi cuộc đấu tranh giai cấp tiến gần tới giờ quyết định, giai cấp thống trị bị phân hóa, một bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai cấp này đi theo giai cấp vô sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ cuộc vận động. Thực tiễn đó đã khẳng định rằng, các tầng lớp trung gian và cả giai cấp thống trị (tầng lớp) trên của xã hội cũng có thể từ bỏ lập trường giai cấp của mình để tham gia hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Chương II: Những người vô sản và những người cộng sản
Chương này C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày tính tiên phong của Đảng Cộng sản, mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, một số nguyên lý chiến lược, sách lược cách mạng.
1. Tính tiên phong của Đảng
Sự trưởng thành của giai cấp vô sản được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản. Song, Đảng Cộng sản khác với toàn bộ giai cấp vô sản ở tính tiên phong. Tính tiên phong của Đảng thể hiện: tiên phong trong hành động thực tiễn, tiên phong về mặt lý luận. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trình bày: những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai cấp vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử toàn thế giới. Nhưng Đảng Cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền với giai cấp. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp: “Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”. Mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản.
Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của chính Đảng mà còn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ trước hết của Đảng là: Giai đoạn thứ nhất, tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền; giai đoạn thứ hai, dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công nhân sản xuất vào trong tay nhà nước. Mác - Ăngghen đã định nghĩa: Nhà nước tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị. Với tư cách là giai cấp thống trị, giai cấp vô sản dùng bạo lực tiêu diệt chế độ sản xuất cũ; đồng thời tiêu diệt những điều kiện của sự đối kháng giai cấp. Nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng tiêu diệt cả sự thống trị của chính ngay giai cấp mình. Giai cấp vô sản không cố chấp về quyền lợi, về vai trò tồn tại của mình. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để đưa đến xóa bỏ giai cấp và xóa bỏ mình. Đó là giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hình thành. Đảng không còn tồn tại cùng với sự mất đi của các giai cấp là tất yếu khách quan.
2. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học
Để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định và bảo vệ một loạt những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lý luận của những người cộng sản là sự phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản. Tuyên ngôn đã khẳng định: “lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra”.
Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những điều kiện thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một phong trào lịch sử đang diễn ra.
- Vấn đề sở hữu:
Lý luận của người cộng sản là xóa bỏ sở hữu tư bản, xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản. Giai cấp tư sản xuyên tạc rằng, người cộng sản xóa bỏ cái riêng của cá nhân. Tư bản không phải là lực lượng cá nhân, nó là một lực lượng xã hội, nhưng nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung của toàn xã hội. Người sở hữu thì không lao động, người lao động thì không được quyền sở hữu, xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội.
- Vấn đề tự do cá nhân:
Mác và Ăngghen khẳng định rằng, trong xã hội tư bản chỉ có nhà tư sản có tính đối lập và cá tính, còn cá nhân người lao động thì mất độc lập và cá tính. Do đó, phải xóa bỏ cá tính tư sản, tính độc lập tư sản, và tự do tư sản, thứ tự do buôn bán và bóc lột sức lao động của người khác để hình thành xã hội mới trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
- Chế độ gia đình:
Người cộng sản chủ trương xóa bỏ gia đình tư sản, khi chế độ tư bản bị xóa bỏ thì quan hệ gia đình tư sản cũng tiêu tan. Bởi vì quan hệ gia đình tư sản dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân nhà tư sản, người phụ nữ coi như một công cụ sản xuất, dựa trên chế độ cộng thể, nạn mãi dâm chính thức và không chính thức. Tư sản đã chà đạp mối liên hệ gắn bó người vô sản với gia đình.
- Vấn đề giáo dục:
Người cộng sản không bịa ra tác động của xã hội đối với giáo dục vì nó là cái vốn sẵn có mà chỉ thay đổi tính chất của sự tác động ấy và kéo giáo dục ra khỏi ảnh hưởng của giai cấp tư sản mà thôi.
- Vấn đề dân tộc, tổ quốc và quốc tế:
Dưới chủ nghĩa tư bản, người cộng sản không có tổ quốc, giai cấp tư sản nắm quyền đại diện cho tổ quốc, dân tộc, lợi ích của tổ quốc và dân tộc mà cơ bản là lợi ích của giai cấp tư sản cho nên giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa mà giai cấp tư sản hiểu.
- Vấn đề tôn giáo:
Giai cấp nào thống trị xã hội thì quan điểm, ý thức tư tưởng của xã hội là của giai cấp đó. Dưới chủ nghĩa tư bản, những tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo chẳng qua chỉ nói lên thời kỳ cạnh tranh tự do trong lĩnh vực tri thức mà thôi. “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ”.
3. Những nguyên lý chiến lược và sách lược của Đảng
- Cách mạng phát triển qua hai giai đoạn:
Giai đoạn l: Xây dựng giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền. Con đường giành chính quyền bằng bạo lực.
Giai đoạn 2: Giai cấp vô sản sử dụng quyền lực chính trị của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, tước đoạt kẻ đi tước đoạt. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản còn nêu mười biện pháp cụ thể mà Mác - Ăngghen cho rằng có thể áp dụng ở những nước tư bản phát triển nhất lúc bấy giờ nhằm cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Mười biện pháp đó thể hiện chuyên chính trong hành động.
- Vấn đề chính quyền nhà nước.
Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph. Ăngghen chưa dùng đến thuật ngữ chuyên chính vô sản nhưng tư tưởng về chuyên chính vô sản đã được hai ông diễn đạt một cách rõ ràng như: “Giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”; “Giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị”.
Chương III: Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời là sự cáo chung đối với tất cả các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản trước đó. Các trào lưu xã hội chủ nghĩa xuất hiện như là một tất yếu lịch sử. Tuyên ngôn xác định thái độ cụ thể với từng trào lưu: Phê phán các trào lưu xã hội chủ nghĩa phản động của phong kiến tiểu tư sản. Tuyên ngôn dành sự đánh giá thích đáng chủ nghĩa xã hội. Tất cả các trào lưu xã hội chủ nghĩa phi vô sản đều là trở ngại cho việc ra đời của chính Đảng. Tuyên ngôn phê phán những trào lưu đó nhằm bảo đảm thắng lợi cho việc truyền bá học thuyết của chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.
Chương IV: Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng độc lập
Chương này khẳng định lập trường kiên định của Đảng Cộng sản về những vấn đề chiến lược và sách lược mềm dẻo của Đảng.
Nguyên tắc có ý nghĩa chiến lược của người cộng sản là: Chiến đấu cho mục đích trước mắt của giai cấp vô sản, nhưng đồng thời trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào.
Xuất phát từ thực tế lịch sử của nước Đức và một số nước ở Châu Âu lúc đó, những mục đích và lợi ích trước mắt của giai cấp vô sản bấy giờ là đấu tranh đánh đổ chế độ quân chủ chuyên chế thực hiện quyền tự do dân chủ; còn tương lai của phong trào là đấu tranh chống lại ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Ở tất cả các nước, những người cộng sản ủng hộ mọi phong trào cách mạng, và trong những phong trào ấy, họ vẫn đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào.
Trong khi liên hợp với các đảng phái để chống lại thế lực phản động đang thống trị, Đảng Cộng sản xác định rằng: giành độc lập, liên minh nhưng phải có đấu tranh, có thỏa hiệp. Tất nhiên bao giờ Đảng cũng phải giữ vững nguyên tắc và giữ vững lập trường của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản tuyên bố quan điểm cách mạng không ngừng, mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc cách mạng, họ giành cả thế giới cho mình.
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”, là khẩu hiệu chiến đấu công khai tuyên bố quá trình quốc tế của phong trào vô sản.
III- Ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng ghen trình bày trong tác phẩm là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác không hề lỗi thời. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về Đảng và xây dựng Đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
- Về vai trò của Đảng: Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đều khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu trong tất cả các giai đoạn cách mạng.
- Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt trong công tác xây dựng Đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo.
- Sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp - tư tưởng này làm cơ sở cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.
- Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản chất lập trường quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết luận đó vận dụng trong công tác phát triển Đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần.
Những tư tưởng quan điểm về xây dựng Đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta.
Theo Giới thiệu tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngnghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Nxb CTQG, H, 1999.