Bùi Xương Trạch (1451 - 1529)
Ở nhà thờ họ Bùi, chi Giáp, tại làng Nhị tức làng Giáp Nhị nay thuộc xã Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì có bức hoành phi đề 4 chữ “Sơn Nam vọng tộc” (họ có danh vọng tại đất Sơn Nam). Đất Sơn Nam tức trấn Sơn Nam, cho đến đầu thế kỷ thứ XIX bao gồm cả các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, và Hà Nam, Hà Đông cũ, trong đó có huyện Thanh Oai và Thanh Trì sát cạnh kinh thành Thăng Long về phía nam. Bốn chữ hoành phi, tương truyền của vua Cảnh Hưng ban cho, nhằm biểu dương một dòng họ có nhiều người hiển đạt giúp dân, ích nước. Chỉ tính dưới triều Lê từ thế kỷ XV đời Lê Thánh Tông cho đến đầu thế kỷ XIX đời Lê Chiêu Thống, khoảng trên 200 năm, gần 17 thế hệ, trong họ không đời nào không có người làm nên, cả văn lẫn võ. Về khoa bảng trong 7 đời có 3 đời đỗ bảng nhãn, hoàng giáp, tiến sĩ không kể những người hương cống, hội thi tam trường. Về văn chức, năm đời giữ chức vụ lớn, trong đó 3 người đứng đầu triều đình với chức Chưởng lục bộ, và Tham tụng, hai người trong Toà hàn lâm. Về võ có hai đời giữ chức Thượng tướng quân và Tổng binh. Đây chỉ là kể những người tiêu biểu nhất, bên cạnh những người giữ chức vụ thấp hơn nhưng không phải là không quan trọng nên Lê Quý Đôn trong chương Tùng đàm của sách Kiến văn tiểu lục đã có câu: “Con cháu sinh sôi nảy nở công nghiệp rạng rỡ vẻ vang từ đầu đời Lê trung hưng, bầy tôi kế thế, tộc thuộc lớn lao, nói đến nhà quý hiển nhất, chỉ có họ Bùi mà thôi”(1).
Mở đầu cho dòng họ đầy hiển hách này là Bùi Xương Trạch, một nhân vật sống cách đây 500 năm, nhưng vẫn được nhắc nhở qua truyền thuyết địa phương và sự nghiệp văn học, chính trị vẫn còn ghi trong sử sách.
Bùi Xương Trạch là ông tổ thứ ba của họ Bùi được ghi trong gia phả. Tổ tiên ông trước kia vốn ở xã Quảng Công, thôn Hạ (nay là thôn Định Công Hạ), đến đời cha ông mới dời ra ở thôn Giáp Nhị, xã Thịnh Liệt. Ông này vốn nghề nông nhưng thích đọc sách, và có 2 vợ, mỗi vợ được một con trai. Con trai cả là Bùi Xương Trạch sau này là tổ đầu tiên của chi Giáp, con trai thứ hai (khuyết tên) sinh năm 1464 mất năm 1552 thọ 87 tuổi, đỗ hương tiến (tức cử nhân) năm 1492, làm đến chức Giám bạ Quốc tử giám nên thường gọi là cụ Giám Bạ. Ông này là thuỷ tổ của chi Ất, một chi không nhiều người đỗ đạt cao bằng chi Giáp nhưng có nhiều người tuổi thọ và vẫn giữ được nền nếp văn học.
Bùi Xương Trạch vốn tên húy là Chạch (gia phả ghi chữ Nôm gồm chữ Ngư là cá, ghép với chữ Trạch là nhà).
Ông có tên chữ là Xương Trạch, sinh năm Tân Mùi niên hiệu Thái Hòa thời Lê Nhân Tông thứ 9, tức 1451. Từ thủa nhỏ ông đã tỏ ra rất ham học. Nhà vốn nghề nông, ông tiếp tục theo việc làm ruộng. Ban ngày ông mang sách đi theo, dù trong lúc cày bừa cũng vẫn vừa làm vừa học. Ban đêm nhà nghèo không đủ tiền dầu đèn, ông bắt đom đóm cho vào túi vải thưa lấy ánh sáng đọc sách, lúc nào mệt quá ông nằm nghỉ tạm trên hai chiếc chày để đau mình thì tránh buồn ngủ, mà có ngủ thiếp đi thì cũng không được say vì nếu cựa mình thì chày lăn chuyển và đánh thức dậy. Vì là dân “chân trắng” nên ông phải thường kỳ cắt cỏ gánh lên kinh thành để nuôi ngựa trong cung điện. Có một lần, đúng vào đêm rằm tháng tám mà có nguyệt thực, vua truyền cho các quan coi việc văn từ làm thơ vịnh. Ông biết chuyện bèn làm bài thơ quốc âm dâng lên. Vua đọc tỏ ý tán thưởng bèn cho triệu đến ban lời khen ngợi, hỏi rõ họ tên quê quán và truyền cho miễn mọi lao dịch để có thể chuyên chú học hành.
Gia phả đã chép chuyện này, và cháu 7 đời của ông là Bùi Huy Bích khi soạn lại tiểu sử của ông đã ghi thêm rằng chiểu theo quốc sử thì năm Hồng Đức thứ 7 (1476) ngày 16 tháng 8 âm lịch, vào đầu canh năm có nguyệt thực toàn phần “chắc việc làm thơ vào năm đó” (Toàn thư - bản dịch, tập 3, 1968).
Năm sau (1477) ông 27 tuổi, đi thi Hương đỗ tứ trường. Và năm sau nữa (1478) ông thi Hội lần đầu tiên, đỗ ngay tiến sĩ. Khoa này có 62 người đỗ trong đó có 50 người trong danh sách tam giáp đồng tiến sĩ, ông đứng thứ 15. Tuy số người trúng tuyển như vậy là khá nhiều, nhưng cả huyện Thanh Trì (hồi đó tên là Thanh Đàm) khoa ấy chỉ được có mình ông. Vì làng ông ở ngay sát kinh đô nên tin những vị tân khoa truyền lan rất nhanh, chẳng mấy chốc khắp vùng đều biết rằng toàn huyện chỉ có xã Thanh Liệt là có ông nghè mới. Từ tháng 3 âm lịch mùa xuân năm đó ông thi Hội đã trúng cách, đến tháng 5 mới vào thi Đình, nhưng thời gian này ông vẫn không rời việc canh nông. Khi tin đỗ về đến làng, ông đang đi cày, có người đến báo, ông vẫn chăm chỉ cày cho xong thủa ruộng rồi mới về nhà.
Lúc này ông 28 tuổi, so với các tiến sĩ nói chung như vậy là còn rất trẻ, nhưng đây là khoa đầu tiên ông đi thi mà đã đăng đệ liền. Rất có thể ông đỗ ngay từ mấy khoá trước nếu ông đi thi sớm hơn. Gia phả ghi chép rằng ông độ 10 tuổi thì mẹ ông mất. Thân sinh ông sau đó ít năm thì lấy kế một bà khác, rồi năm 1464 sinh con trai thứ hai, kém ông 13 tuổi. Cảnh nhà túng thiếu, ông muốn bảo đảm việc sinh sống trong gia đình nên không nghĩ đến chuyện đi thi quá sớm, vì hồi đó dân làng thưa thớt, họ hàng đều nghèo túng, việc nộp quyển sắm sửa lều chõng đi thi đòi hỏi những tốn phí khá lớn và không tránh được. Như vậy việc thi chậm chỉ là do ý muốn giúp đỡ gia đình trước tiên. Chung quanh làng nước biết chuyện đều khen ông là hiếu hữu.
Sau khi đỗ, ông được bổ vào toà Hàn lâm, sau đó có lần theo vua đi dẹp giặc ở biên thuỳ, gia phả cũ và Lịch triều hiến chương loại chí chép rằng ông theo Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, nhưng Bùi Huy Bích khi soạn lại gia phả họ mình đã ghi chú rằng: “Chép đi đánh Chiêm Thành như vậy e rằng không hoàn toàn đúng, thời gian này chỉ có việc Lê Thánh Tông đem quân đi đánh Bồn Man (Ai Lao) ở phía tây (1479)”. Năm 1489 ông được sung vào đoàn sứ bộ sang cống nhà Minh, có Nguyễn Khắc Cung (đỗ tiến sĩ 1469) làm chánh sứ.
Năm 1491 khoảng tháng 11, vua sai dựng ngôi đình ở ngoài cửa Đại Hưng, tức cửa Nam hoàng thành để treo những pháp lệnh công bố cho dân biết, sau đó vua trao cho Bùi Xương Trạch việc làm bài ký ghi lại việc xây dựng và nói lên ý nghĩa của công trình này. Bài ký nổi tiếng được chép lại trong nhiều tập văn tuyển cũ, coi như một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học thời thịnh trị triều Lê.
Lê Thánh Tông mất năm 1497, thái tử Chanh lên ngôi vua, tức là Lê Hiến Tông. Bùi Xương Trạch được thăng từ Đông các hiệu thư (hàm chánh lục) lên Đông các học sĩ (hàm tòng ngũ). Năm Nhâm Tuất (1502), ông được cử làm giám thị khoa thi Hội, sau đó, do đức tính cẩn trọng trung thực, ông được lên chức Thiên đô ngự sử ở Ngự sử đài (hàm chánh ngũ).
Trong bài biểu tạ ơn còn được chép trong Lịch triều hiến chương có câu “chưa đến 6 tuần đã lên thất quý” (thất quý chỉ những người giữ chức vụ quan trọng trong triều) chứng tỏ rằng ông được thăng chức này trước năm 1510.
Lần lượt ông được trao nhiều chức vụ trọng yếu. Trước khi về hưu cùng một lúc ông kiêm nhiều chức lớn trong triều: Thượng thư bộ Binh, Chưởng lục bộ (có ý nghĩa là trông nom cả 6 bộ khác, tức gần như Tể tướng), Đô ngự sử (coi việc đàn hặc những chuyện sai trái trong triều), Tri kinh diên sự (đảm nhiệm việc giảng sách cho vua nghe và trình bày những điều hay dở), Tế tửu Quốc tử giám (đứng đầu trường học cao nhất trong nước, và đang ở thời kỳ phát triển khá mạnh dưới triều Lê Thánh Tông). Ông còn được phong tước Quảng Văn hầu. Tước hiệu này ghi lại tài văn học quảng bác của ông, và cũng có thể ghi lại cả vinh dự ông đã được vua trao cho viết bài ký đình Quảng Văn.
Trong thời gian cuối đời làm quan của ông, triều Lê trải qua một cuộc khủng hoảng sâu sắc với những tên vua xa xỉ, dâm lạc như Uy Mục (1505 - 1509) và Tương Dực (1510 - 1516). Bùi Xương Trạch lấy cớ đau mắt cố xin về hưu vào năm Canh Thìn (1520) niên hiệu Quang Thiệu triều Lê Chiêu Tông. Ông mất ở nhà ngày 3 tháng 11 năm Kỷ Sửu (1529) thọ 79 tuổi, mai táng ở gò trong thôn, xứ Kim Lộc.
Về mặt văn học, gia phả họ Bùi ở Giáp Nhị còn chép lại bài thơ của ông vịnh đêm rằm trung thu gặp nguyệt thực bằng quốc âm khi ông chưa đỗ vào năm 1476. Đây là một trong những bài thơ Nôm tương đối cổ còn truyền lại được. Bài thơ phiên âm như sau:
Lượt là vằng vặc rạng tơ hào
Phải mịt mù nay vị cớ bao
Nhân bởi hắc vân ngất phủ
Há rằng thỏ ngọc hay lao
Hằng Nga lấy đấy làm rông vát(2)
Thục đế từ nay kẻo ước ao(3)
Mực rằng đêm nay chẳng thấy nguyệt
Thu qua đông đến quế càng cao.
Bài thơ tả cảnh nguyệt thực là thật là sát, hai câu đầu tả cảnh trăng sáng bị che lấp, hai câu 3, 4 nói lý do: chính bị mây đen che phủ chứ không phải vì thỏ ngọc chạy rông đâu mất nên trăng bị tối mờ. Hai câu 5, 6 đưa ra mặt hay của nguyệt thực: Hằng Nga có dịp đi chơi và chàng Ngô Hy (từng làm phản xưng là Thục vương) không còn thấy được người cầm roi ở vầng trăng xui nên có những ước ao ngạo ngược. Hai câu kết luận cũng đầy lạc quan: đừng nên buồn về chuyện đêm trung thu không trăng, vì tháng sau cả mùa đông, trăng sẽ lại vẫn tròn và cây quế cung trăng sẽ cao hơn, khiến người bẻ quế tức người thi đỗ sẽ được một cành vươn cao hơn nữa, có nghĩa là thành công rực rỡ hơn.
Bài Ký đình Quảng Văn bằng Hán văn, là một bài nổi tiếng. Bài này có giá trị đặc biệt vì nó ghi lại khá rõ nét địa điểm đình Quảng Văn và khu lân cận, đồng thời biểu hiện một phần nào thời thịnh trị dưới triều Lê Thánh Tông, sự chăm sóc của triều đình đối với việc ban bố rộng rãi những chính lệnh để mọi người đều được biết và noi theo. Ta thấy đình Quảng Văn “ở mé ngoài cửa Đại Hưng; theo địa thế thì lầu phượng cao ngất ở phía trước, thành rồng bao vây ở bên ngoài, ngòi nước bạc và đường cấm vệ vòng quanh tả hữu”. Thành rồng đây chỉ thành Đại La, ngòi nước bạc (ngân câu) có thể là ngòi Bích Câu ở gần đấy hoặc ngòi chảy quanh làm hào bảo vệ thành.
Về hình dáng ngôi đình, bài ký viết “trụ cột trang nghiêm mà cao, đục chạm thật đơn giản, dù có thấp mà không xấu, đẹp mà không lộng lẫy. Quy mô như vậy là đúng mức”.
Bài ký còn nhấn mạnh về ý nghĩa tác dụng của ngôi đình sau khi treo yết những chính lệnh “công việc của muôn dân thiên hạ sẽ sáng như sao, rạng rỡ như vầng nhật, khiến cho việc tai nghe mắt thấy của bốn phương được thêm đổi mới, và biểu dương nền văn minh của một đời”.
Lời văn trong sáng và mạnh mẽ nhấn mạnh việc cần thiết công bố những văn bản chủ yếu của nhà nước để mọi người thứ dân đều có thể như được vua “ghé tai dặn đò, giáp mặt chỉ bảo” (nhĩ đề nhi diện mệnh), “văn hoá và đạo đức đều phát triển mở mang, không nơi xa xôi nào mà không tới”.
Bài ký có thể coi như tiêu biểu cho thời đại hưng thịnh dưới thời Lê Thánh Tông với một nền chính trị chú ý nâng cao phong hóa của đất nước, ,của đông đảo quần chúng.
Ngoài bài ký này làm dưới thời Hồng Đức, trong gia phả và Lịch triều hiến chương còn ghi lại hai bài biểu tạ ơn của Bùi Xương Trạch làm khi được thăng chức Hiệu thư đông các và khi đổi qua Thiêm đô ngự sử. Kể ra những bài biểu tạ ơn loại này thật không hiếm, bất cứ một ai đã đỗ đạt ra làm quan đều có thể làm và có nhiệm vụ làm mỗi khi có việc lên chức hay thuyên chuyển. Nhưng hai bản này sở dĩ được chép lại, vì ngoài giá trị văn học của nó, nó còn soi sáng về tâm thuật Bùi Xương Trạch và thời đại ông đang sống. Bài biểu thứ nhất nhằm tạ ơn việc thăng chức từ Học sĩ lên Hiệu thư đông các. Bài biểu làm ở giai đoạn đầu cuộc trị vì của Lê Hiến Tông, nó vừa tỏ lòng biết ơn, vừa nhắc tới thời thịnh trị của Lê Thánh Tông và hy vọng ở sự tiếp nối của vua mới “nay được gặp bệ hạ noi theo vũ công đời trước mở mang văn hoá làm sáng đức của mình, đổi mới việc chính trị cho dân, mở rộng đường giáo hóa, không lơi là người gần, không quên người xa, mở rộng đường khuyến khích công lao để lấy người hiền”(4).
Bài biểu thứ hai làm khi đổi sang Thiêm đô ngự sử, một chức gìn giữ pháp lệnh của triều đình, đã đòi hỏi đức tính can đảm dám vạch rõ những điều sai trái. Lúc này đương vào thời Uy Mục, chính sự nhiều điều đồi bại(5), bài biểu có ý nhắc tới trách nhiệm của vua: “nghĩ thần giữ chức đã lâu, không có bè cánh, biết thân với người ngay thẳng, có thể sử linh, quyền hành uốn cong chữa vạy gánh nặng trên cho, công việc xử trí quyết đoán, lòng trung trông cậy. Thần xin kính vâng lệnh vua, nguyện xin hết lòng... sẽ cố gắng khuyên can bằng nhân nghĩa, bày mưu nguyện bắt chước người xưa”.
Bên cạnh sự nghiệp văn học, Bùi Xương Trạch còn được mọi người mến phục vì đức độ lớn của ông, như Phan Huy Chú từng nhận định “khiêm nhường, giữ gìn thanh liêm kiệm ước, không mảy may mưu tính việc riêng tư, bổng lộc đều đem chia cho họ hàng làng mạc, lòng nhân huệ. Đức vọng lớn của ông khiến người đương thời đều suy tôn kính phục”.
Làng Thịnh Liệt quê ông ở bên cạnh đầm lớn, nổi tiếng về sản vật cá rô, phải chịu thuế nặng nề. Bọn nha lại còn nhân đó mà hạch sách vơ vét, dân chúng có người phải bán cả nhà cửa. Ông bèn xin vua khoanh đất đắp bờ làm khu vực trao cho ông để thay thế bằng lương bổng, và như vậy thì được miễn đóng thuế. Sau đó hoa lợi đánh cá ông bèn trao cả cho người làng.
Bùi Xương Trạch lấy bà vợ họ Đào người thôn Khúc Thủy huyện Thanh Oai, sinh được hai trai một gái. Con cả là Bùi Trụ chân nho sinh trúng thức (tức đỗ hương tiến mà là con cháu đại thần), làm Tán lý dưới triều Mạc, sau theo Lê Bá Ly vào quy thuận nhà Lê ở Thanh Hóa và mất tại đó, được phong tặng Thái phó Kính Quận công. Con thứ là Bùi Vịnh đỗ bảng nhãn khoa Nhâm Thìn niên hiệu Đại Chính nhà Mạc (1532) lúc 25 tuổi làm Tả thị lang tước Mai Lĩnh hầu. Con gái ông lấy vua Lê Hiến Tông thường gọi là Mai phi. Cháu nội ông tức con trai Bùi Vịnh là Bùi Bỉnh Uyên đi theo Bùi Trụ vào Thanh Hóa phò Lê, đón vua Lê về Đông Đô, làm đến Thượng thư bộ Binh. Con cháu thành đạt ngay từ lúc sinh thời của Bùi Xương Trạch mà tiếp diễn mãi sau này. Đây là niềm tự hào và cũng là nền tảng của sự thành đạt tiếp nối lâu đời của một dòng họ, xứng đáng với danh hiệu một vọng tộc đất Sơn Nam.
http://hanoi.benhthan.com/Danh-nhan-Ha-Noi/Bui-Xuong-Trach-1451-1529.nso