CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
Tư sản dân quyền
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 bạn biết gì về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
bạn biết gì về Đại tướng Võ Nguyên Giáp I_icon_minitimeSun May 16, 2010 3:09 pm

quachthailam
Sử/Địa/Pascal

Thành viên mới gia nhập

quachthailam

Thành viên mới gia nhập

Họ & tên Họ & tên : Quách Thái Lâm
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 16/05/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 2
Đến từ Đến từ : Quảng Bình
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Sử/Địa/Pascal
Điểm thành tích Điểm thành tích : 3
Được cám ơn Được cám ơn : 0

Bài gửiTiêu đề: bạn biết gì về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

 
Võ Nguyên Giáp (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911) là Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ một cử nhân luật, một giảng viên dạy sử, ông đã chỉ huy đội quân của mình đánh bại quân đội Pháp, đánh đuổi quân lực Mỹ và đánh sập chế độ Việt Nam Cộng hòa. Ông được xem như là huyền thoại quân sự khi chỉ huy một đội quân nhỏ đánh thắng những đội quân lớn.[1] Nếu như chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt chủ nghĩa thực dân, đập tan huyền thoại bất khả chiến bại của phương Tây và thúc giục tinh thần chống thực dân trên toàn thế giới[2] thì chiến thắng tại miền nam Việt Nam đã hạ nhục sức mạnh "vô địch" của Hoa Kỳ[3]. Ông từng giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi với cái tên thân thiết là (anh) Văn.
Thời niên thiếu

Võ Nguyên Giáp sinh ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân). [4] Võ Quang Nghiêm là một nho sinh thi cử bất thành về làm hương sư và thầy thuốc Đông y, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông bị Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù.

Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào). Hai năm sau, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam. Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.

Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các thầy giáo Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng...

Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động Cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư [5]

Năm 1934, ông lấy bà Nguyễn Thị Quang Thái (1915-1943), bạn học tại Quốc học Huế và là một đồng chí của ông (bà là em ruột của Nguyễn Thị Minh Khai).[6] Năm 1943, bà Thái chết trong nhà ngục Hỏa Lò, Hà Nội.
Tham gia quân sự

Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Uỷ ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.

Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại trường tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường.[7]

Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Ông tham gia gây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy.[1] . Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyễn Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.

Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ.

Trong Chính phủ Liên hiệp, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi).

Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.
Đại tướng đầu tiên

Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm, nhưng Võ Nguyên Giáp đã thụ phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân Đội Quốc gia Viện Nam khi 37 tuổi. Sau này, khi được hỏi về lý do được Hồ Chủ tịch chọn làm Đại tướng đầu tiên của Quân đội, ông khiêm tốn trả lời "tôi không biết". Lúc sinh thời, khi trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói: "ai đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng" [8]. Cùng đợt thụ phong có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 8 năm 1948, ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.

Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.

Võ Nguyên Giáp là tướng nối tiếng với nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là "Chiến tranh Nhân dân" kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác Lê và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong suốt cuộc đời cầm quân.

Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn". Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 Đại đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương và đã đưa tên tuổi Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự, một người hùng của thế giới thứ 3, nơi những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để quyết tâm lật đổ thực dân lập nên nền độc lập của chính mình.
Các chiến dịch đã tham gia
Tướng Giáp báo cáo kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ

Các chiến dịch ông đã tham gia với tư cách là Tư lệnh chiến dịch - Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp:

* Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
* Chiến dịch Biên giới (tháng 9 - 10, năm 1950)
* Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950)
* Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951)
* Chiến dịch Đông Bắc (tháng ?? năm 1951)
* Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951)
* Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952)
* Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953)
* Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 - 5 năm 1954)

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho quyền lực Pháp ở Việt Nam nhưng cũng mở ra một giai đoạn mới với người Mỹ suốt 21 năm, khốc liệt, tàn bạo và đẫm máu hơn nhiều. Trong suốt giai đoạn này, tài năng của Võ Nguyên Giáp và các sĩ quan chỉ huy 6 Đại đoàn "vốn liếng" thời đánh Pháp đã được phát huy cao độ. Họ đã chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh những trận ác liệt nhất trong lịch sử dân tộc chỉ vì một ngày đất nước độc lập, thống nhất và sạch bóng quân xâm lược.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ
Hình vẽ Võ Nguyên Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15-5-1972

Từ năm 1954 đến năm 1976, Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng. Ông còn là Phó thủ tướng Chính phủ, sau là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (từ năm 1955 đến năm 1991).

Trong giai đoạn này, tình hình chính trị thay đổi, Võ Nguyên Giáp vẫn đảm nhiệm vị trí chỉ huy cao nhất của quân đội nhưng với vai trò mới vì từ Đại hội Đảng thứ 3 năm 1960 quyền quyết định số 1 về các vấn đề quân sự đã thuộc về nhà lãnh đạo mới đắc cử vị trí Bí thư thứ nhất có tên là Lê Duẩn, một nhà cách mạng dày dạn tại cả 3 miền nam, trung, bắc, một người đã tận mắt chứng kiến hệ quả của Hiệp định Geneve là phong trào "tố cộng, diệt cộng" do chính phủ Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam phát động và thầm nguyện đem sức mạnh vô địch của Đảng Lao động để nhấn chìm chế độ Việt Nam Cộng hoà, thống nhất lãnh thổ của người Việt cho dù phải đối địch kẻ thù khủng khiếp nhất bảo trợ chế độ này là Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ.

Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò như vị tướng số 1 trong hàng ngũ tướng lĩnh danh tiếng. Ông được quân đội gọi là Anh Cả và theo nhiều tài liệu chính thức gần đây mới tiết lộ cho thấy vẫn mang tính quyết định trong lịch sử đánh Mỹ của dân tộc.

Là người có thói quen viết hồi ức, nhưng Võ Nguyên Giáp đến nay chưa có sách viết về giai đoạn 1954 - 1972, một giai đoạn đầy xáo trộn chính trị tại cả hai miền nam bắc, đầy mâu thuẫn trong cách nhìn nguyên nhân, hậu quả việc ký kết Hiệp định Geneve và cũng là giai đoạn đẫm máu nhất trong lịch sử chống Mỹ diệt Ngụy của dân tộc.

Cuốn hồi ức mang tên "Tổng Hành dinh trong Mùa xuân Đại thắng" do ông xuất bản lần đầu năm 2001 đã kể lại những hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh từ năm 1972-1975, chỉ cho thấy sự đoàn kết sắt thép giữa ông và nhà lãnh đạo Lê Duẩn cũng như các nhà chỉ huy quân sự khác của quân đội. Năm 1972, chính ông đã bố trí lực lượng đánh trả các cuộc tập kích đường không của không lực Mỹ suốt 12 ngày đêm. Năm 1975, chính ông đã tán thành ý kiến đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam để đánh đòn "điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng Hòa. Cũng chính ông thừa cơ thắng trận Buôn Ma Thuột ra lệnh cho Trung tướng Lê Trọng Tấn phải gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Cũng chính ông xin phép Bộ Chính trị và quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới miền nam, giải phóng, thống nhất đất nước".

Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.

Năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng quân đội, một trong những cộng sự lâu năm nhất của ông.

Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch khi Ủy ban này được thành lập (cùng với một số Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm phó)[9].

Năm 1991, ông thôi chức ủy viên Trung ương, phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80.
Đại tướng trong buổi gặp mặt tổng thống Brasil Luiz Inácio Lula da Silva, năm 2008

Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), 2 Huân chương Hồ Chí Minh,2 Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất.

Ngày 25 tháng 8 năm 2009, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng sinh nhật thượng thọ lần thứ 98. Ông là chính khách Việt Nam sống lâu nhất tính cho đến thời điểm này (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mất năm 2000, thọ 94 tuổi).

Thời gian gần đây tuy tuổi cao, sức yếu, nhưng ông vẫn quan tâm và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18[10], hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khâu nông sản[11]. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2007 ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu[12]. Ông cũng có bài viết thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề "cơ bản và cấp bách" nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay.[13]
Đánh giá

"Tướng Giáp hoàn toàn tận tụy với nhân dân và đất nước."

Ông Giáp đã xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Ông đã chỉ huy quân đội tốt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ, với nỗi hổ thẹn của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, với học thuyết "Chiến tranh Nhân dân", với toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.

Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thông tin chính thống gần đây cho biết: "Tất cả các ý kiến của anh Văn đều được Bộ Chính trị tiếp thu và tán thành trong suốt thời kỳ chiến tranh". Thượng tướng Trần Văn Trà đã từng gọi Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là tư lệnh của tư lệnh, chính uỷ của chính uỷ. Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo khi được hỏi về trình độ đánh trận của các tướng lĩnh Việt Nam đã trả lời: "Giỏi nhất đương nhiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rồi đến Đại tướng Lê Trọng Tấn, rồi đến Thượng tướng Nguyễn Hữu An...". Với quân đội, ông thực sự là tấm gương sáng cho các thế hệ tướng lĩnh về đạo đức, sự chuẩn mực, tài cầm quân, nghệ thuật chiến đấu, chiến thắng. Ông là hình ảnh rực sáng, là tượng đài sừng sững trong lòng cán bộ, chiến sĩ, những người đào hào trong chiến dịch Điện Biên Phủ, những người đã xẻ dọc Trường Sơn, đào địa đạo Củ Chi đánh Mĩ. Nếu dân gian có câu: "Người lính dũng cảm trong tay người tướng giỏi" thì khi có ông là Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, những người lính của đạo quân này vốn xuất thân từ nông dân đã trở thành những chiến sĩ kiên cường nhất, bất khuất nhất và bách chiến bách thắng. Nhiều tờ báo của Đảng, của Quân đội, cũng như của công chúng và các kênh truyền hình trong nhiều năm nay đã luôn nhắc đến ông như là một thiên tài quân sự kiệt suất của người Việt.

Trong thời gian gần đây, tại các lễ hội, mít tinh, giải thi đấu thể thao lớn nhỏ trong nhà, ngoài trời, nhiều nam nữ thanh niên đã mang ảnh chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra vẫy cổ động. Điều này cho thấy, ông không chỉ là thần tượng của thế hệ kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây mà còn là hình ảnh lẫm liệt trong lòng giới trẻ, thanh niên, trí thức ngày hôm nay. Thế hệ trẻ nhìn nhận lịch sử và ngưỡng mộ ông một cách tự nguyện và chân thành nhất.

Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà bạn bè năm châu bốn biển khi nhắc đến tên Võ Nguyên Giáp đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc, các dân tộc châu Phi và Mỹ La-tinh tin rằng chiến thắng Điện Biên Phủ do ông chỉ huy là khởi nguồn cho nền độc lập hôm nay của họ.

Nếu như tiêu chí chọn tướng của Hồ Chủ tịch là "Đánh thắng Đại tướng được phong Đại tướng" thì suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đọ sức và đánh thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ (4 Pháp và 6 Mỹ), chưa kể đến nhiều viên đại tướng của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Các tướng lĩnh Mỹ khi nhắc đến ông vẫn thường gọi ông là "Đại tướng 5 sao", William Westmoreland gọi ông là "Tướng huyền thoại" (Legendary Giap)... Trong Bách Khoa Toàn Thư của Mỹ và của nhiều nước, tên và hình ảnh của ông được ghi lại như là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất.

Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (Time Asia) đã ra số đặc biệt giới thiệu các "Anh hùng châu Á", gồm các nhân vật làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiền sư Thích Nhất Hạnh,...[14]
Tiếp tùy viên quân sự các nước

Nhân kỷ niệm 55 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đại tướng Giáp đã tiếp các tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam. 26 tùy viên quân sự của 23 nước đến thăm Đại tướng Giáp ngày 4 tháng 5 2009, đến từ các nước từng giúp đỡ và ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập và thống nhất đất nước. Trong đó có tùy viên quân sự của Lào, Nga, Cuba và CHDCND Triều Tiên,… Tùy viên quân sự Mỹ tại Việt Nam cũng đến thăm đại tướng nhân dịp này.

Nói chuyện với các tùy viên quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, chiến thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam là nhờ tình đoàn kết gắn bó giữa quân đội, nhân dân Việt Nam và được sự ủng hộ to lớn của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử nhân loại như một điểm sáng về quân sự không chỉ bởi vì đó là chiến thắng của Việt Nam mà còn bởi vì đã góp phần vào chiến thắng của nhiều nước khác trên thế giới trong sự nghiệp giải phóng dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Vì thế, trong giai đoạn hiện nay, Đại tướng bày tỏ hy vọng rằng các tùy viên quân sự sẽ góp sức mình trong công cuộc xây dựng mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển giữa Việt Nam và tổ quốc của họ nói riêng, trong khu vực và trên toàn thế giới nói chung. Nhân cuộc gặp hiếm có này, các tùy viên quân sự đã bày tỏ vinh dự được đại diện cho quân đội quốc gia của mình tiếp kiến với Đại tướng Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, một vị tướng tài ba mà tên tuổi đã vượt không gian và thời đại trở thành một tấm gương về tài cầm quân, đạo đức người lính, nghệ thuật chiến đấu và chiến thắng.
Quan điểm khác

Vào đầu năm 2009, Võ Nguyên Giáp có nhiều góp ý về các sự kiện lớn của đất nước. Tiêu biểu là việc góp ý về dự án Boxit ở Tây Nguyên, không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này [15], vì lí do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường.
Vấn đề sức khỏe

Cuối năm 2009, tình trạng sức khỏe của Đại tướng Giáp biến chuyển theo chiều hướng không tốt, gia đình đưa ông vào bệnh viện 108 để chữa trị. Đến ngày 25/1/2010, tình hình sức khỏe của Đại tướng có dấu hiệu bình phục, chỉ phải thở oxy vào ban đêm[16]
Các tác phẩm chính

* Vấn đề dân cày (đồng tác giả với Trường Chinh), 1938
* Đội quân giải phóng, 1947
* Từ nhân dân mà ra, 1964
* Điện Biên Phủ, 1964
* Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng, 1970
* Những năm tháng không thể nào quên, 1972
* Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân, 1972
* Những chặng đường lịch sử (gồm 2 tác phẩm đã in trước đó là Từ nhân dân mà ra và Những năm tháng không thể nào quên), 1977
* Chiến đấu trong vòng vây, 1995
* Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, 1979
* Đường tới Điện Biên Phủ
* Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử
* Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng, 2000
(nguồn:Wiki)
Chữ ký của quachthailam




 

bạn biết gì về Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: TRI THỨC PHỔ THÔNG :: Lịch sử-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất