--------------------------------------------------------------------------------
Năm 1971, cuộc đối đầu giữa hai cường quốc hạt nhân Mỹ và Liên Xô khi xảy ra cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan đã khiến dư luận quốc tế phải quan tâm.
Tướng Niazi, chỉ huy quân đội Pakistan ở vùng lãnh thổ phía Đông, ký kết văn kiện đầu hàng trước sự chứng kiến của tướng Jaglit Singh Aurora, tư lệnh quân đội Ấn Độ.
Cuộc chiến xảy ra giữa Ấn Độ và Pakistan vào tháng 12/1971, bắt nguồn từ cuộc bầu cử Quốc hội Pakistan vào năm 1970 sau khi đảng Awami do giáo chủ Mujibur Rahman, đại diện cho cộng đồng người Hồi giáo tại vùng lãnh thổ đông Pakistan (quốc gia Bangladesh hiện nay) giành thắng lợi. Thế nhưng, Thủ tướng Pakistan khi đó, Zulfikar Ali Bhutto từ chối trao chiếc ghế thủ tướng lại cho Giáo chủ Rahman, đồng thời ra lệnh cho quân đội thẳng tay đàn áp những người Hồi giáo có thiện cảm với đảng Awami.
Ngày 25/3/1971, quân đội Pakistan chiếm giữ thành phố Dhaka (thủ đô Bangladesh hiện nay) ở vùng lãnh thổ đông Pakistan, bắt giữ Giáo chủ Rahman và ra lệnh giải tán đảng Awami. Thế nhưng hành động này của chính quyền Pakistan đã gây bất bình trong nội bộ quân đội để đến ngày 27/3/1971, Đại tá Ziaur Rahman quyết định ly khai khỏi quân đội Pakistan và tuyên bố sẽ thành lập quốc gia Bangladesh.
Hành động này của Đại tá Rahman không những nhận được sự hậu thuẫn của Ấn Độ mà cả của Liên Xô. Riêng Mỹ lại phản ứng gay gắt về việc thành lập một quốc gia mới ở đông Pakistan chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Liên Xô. Vì vậy, chính quyền Mỹ do Tổng thống Richard Nixon đứng đầu quyết định tăng cường viện trợ quân sự cho Pakistan để giải thể chính quyền mới ở vùng lãnh thổ đông Pakistan bằng vũ lực.
Hậu quả là bạo lực tăng cao ở đông Pakistan, hàng triệu người đông Pakistan phải chạy tị nạn vào lãnh thổ Ấn Độ ở các bang tây Bengal, Bihar, Assam, Meghalaya và Tipura nhằm tránh các vụ thảm sát gây ra bởi quân đội Pakistan.
Ở phía tây Pakistan, chính quyền của Thủ tướng Bhutto, được sự hậu thuẫn cả về mặt ngoại giao và quân sự của Mỹ, lăm le tấn công Ấn Độ.
Trước tình hình căng thẳng của một cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan không thể nào tránh khỏi, Thủ tướng Ấn Độ, bà Indira Ghandi, có chuyến công du đến Liên Xô vào ngày 9/8/1971 để ký kết 21 hiệp định hợp tác cả về kinh tế và quân sự với Liên Xô.
Hành động này của Thủ tướng Ghandi khiến Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger cho rằng Liên Xô muốn thông qua Ấn Độ để bành trướng thế lực ở Nam Á. Vì thế, Mỹ quyết định “bật đèn xanh” để Pakistan tấn công Ấn Độ.
Từ tháng 10/1971, Mỹ tăng cường các chuyến bay vận chuyển khí tài quân sự cho Pakistan. Từ các căn cứ quân sự ở Nhật và Philippines, các máy bay vận tải quân sự C-130 và C-141 của Không quân Mỹ đêm ngày đáp xuống các sân bay Islamabad và Karachi của Pakistan, mang theo hàng “núi” vũ khí. Hàng trăm cố vấn quân sự Mỹ cũng được đưa đến Pakistan dưới nhiều vỏ bọc khác nhau.
Và khi công tác chuẩn bị đã cơ bản hoàn thành, vào ngày 3/12/1971, Pakistan tiến hành tấn công Ấn Độ bắt đầu bằng các cuộc ném bom ồ ạt các căn cứ quân sự Ấn Độ dọc theo biên giới phía tây bắc. Ở phía đông, quân đội Pakistan trung thành với Thủ tướng Bhutto cũng đồng loạt tấn công vào lãnh thổ Ấn Độ. Ấn Độ đánh trả một cách quyết liệt cả trên bộ, trên không và trên biển.
Trên bộ, quân đội Ấn Độ với vũ khí, khí tài hiện đại do Liên Xô trang bị không những chống trả hữu hiệu các cuộc tấn công của Pakistan mà còn thọc sâu vào bên trong lãnh thổ Pakistan ở phía tây và chiếm giữ một vùng lãnh thổ rộng đến 4.000 km2.
Trên biển, Hải quân Ấn Độ làm chủ tình thế sau khi liên tiếp mở hai chiến dịch Trident và Pythus vừa tấn công đánh phá các tàu chiến Pakistan đồng thời phong tỏa việc tiếp tế bằng đường biển cho quân đội Pakistan ở vùng lãnh thổ phía đông.
Trên không, các chiến đấu cơ MiG-21 (do Liên Xô sản xuất) và Mirage III (do Pháp sản xuất) của Không quân Ấn Độ đã thực hiện trên 4.000 phi vụ săn đuổi máy bay đối phương và yểm trợ các cuộc phản công trên bộ của quân đội Ấn Độ.
Được lệnh của Tổng thống Nixon, Lực lượng đặc nhiệm Hải quân số 74 bao gồm tàu sân bay Enterprise, 4 chiến hạm mang tên lửa đầu đạn hạt nhân và một tàu ngầm hạt nhân bắt đầu tham chiến Ấn Độ Dương.
Đến ngày 11/12/1971, Lực lượng đặc nhiệm 74 đã có mặt ở ngoài khơi vịnh Bengal của Ấn Độ. Các chiến đấu cơ phản lực xuất phát từ tàu sân bay Enterprise thực hiện các phi vụ áp sát lãnh hải và lãnh thổ Ấn Độ để gây áp lực.
Để đáp trả hành động khiêu khích của Mỹ, từ ngày 6 đến ngày 13/12/1971, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Liên Xô xuất phát từ căn cứ Vladivostok đã phái một đội tàu chiến bao gồm tàu sân bay trực thăng Kiev, 5 chiến hạm mang tên lửa đầu đạn hạt nhân cùng 2 tàu ngầm đến vịnh Bengal để bảo vệ Ấn Độ theo tinh thần Hiệp ước Hữu nghị và An ninh mà Xô - Ấn đã ký kết. Phía Liên Xô tuyên bố sẵn sàng giáng trả đích đáng nếu Mỹ can thiệp bằng quân sự vào cuộc chiến giữa Ấn Độ và Pakistan.
Nhằm tránh một cuộc đối đầu gây căng thẳng quá mức giữa Mỹ và Liên Xô như đã từng xảy ra tại Cuba vào đầu thập niên 60, Liên Hiệp Quốc kêu gọi Mỹ và Liên Xô bình tĩnh tìm biện pháp giải quyết thích hợp.
Đến ngày 16/12/1971, do không chịu nổi các cuộc tấn công của Ấn Độ nên quân đội Pakistan ở phía đông do tướng Niazi chỉ huy tuyên bố đầu hàng, dẫn đến việc thành lập Nhà nước Bangladesh ở phần lãnh thổ phía đông Pakistan. Đây được xem là cuộc đầu hàng tập thể lớn nhất thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 với 93.000 binh lính Pakistan bị bắt làm tù binh, trong đó có 200 tội phạm chiến tranh bị buộc tội đã gây thảm sát 300.000 dân thường Pakistan ở phía đông.
Ở phía tây, Pakistan cũng đình chỉ các hoạt động quân sự. Và thế là cuộc chiến tranh giữa Pakistan và Ấn Độ kéo dài từ ngày 3/12/1971 đến tháng 1/1972 mới chấm dứt khi Lực lượng đặc nhiệm 74 của Hải quân Mỹ được lệnh rút ra khỏi Ấn Độ Dương.
Các tàu chiến của Hải quân Liên Xô cũng được lệnh quay về lại căn cứ Vladivostok vào ngày 7/1/1972. Cuộc đối đầu căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô cũng kết thúc