1. Ở ngôi lâu nhất:
Vua
Lý Nhân Tông ở ngôi 55 năm ( 1072- 1127 ). Lý Nhân Tông còn là ông vua
có nhiều niên hiệu nhất: 8 niên hiệu, trong đó có niên hiệu Hội Tường
Đại Khánh được dùng lâu nhất là 10 năm. Vua là con trưởng của Lý Thánh
Tông và mẹ là thái hậu Ỷ Lan. Nhân Tông trán dô mặt rồng, tay dài quá
gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, là một vua giỏi của triều
Lý, hưởng thọ 61 tuổi.
2. Ở ngôi ít nhất :
Vua Lê Trung Tông ( nhà tiền Lê ) và vua Nguyễn Dục Đức ( Nguyễn Phúc Ưng Chân), mỗi vị ở ngôi 3 ngày, không kịp đặt niên hiệu.
Khi
Lê Hoàn mất, các con chém giết lẫn nhau. Sau 8 tháng đánh nhau quyết
liệt, Trung Tông lên ngôi, được 3 ngày thì bị em là Lê Long Đĩnh giết
chết.
Dục Đức lên ngôi theo di chiếu của Tự Đức. Hai phụ chính đại
thần là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nại rằng Dục Đức muốn cải
di chiếu nên đã sai Trần Tiễn Thành đọc bớt đi ( đoạn nói mắt vua có
tật, tính thì hiếu dâm....), có tang vẫn dùng áo màu.... dâng sớ lên
Hoàng thái hậu đặt vua khác. Vua bị phế khi vừa lên ngôi được 3 ngày (
20, 21, 22.7.1883 ), bị giam và bỏ đói, rồi chết.
3. Lên ngôi muộn nhất:
Vua Trần Nghệ Tông, khi đã 49 tuổi, sau việc lật đổ con rể mình là Dương Nhật Lễ.
Dương
Nhật Lễ cũng là người duy nhất không mang họ Trần làm vua dưới triều
Trần. Sau khi Trần Dụ Tông mất, Lễ được chính mẹ của Dụ Tông là bà Hiến
Từ Tuyên Thánh hoàng thái hậu đưa lên ngôi. Có được ngôi báu, Lễ quay
lại bức hại bà và quý tộc họ Trần, cốt giành quyền bính cho họ Dương, ở
ngôi được hơn năm thì bị Trần Nghệ Tông giết.
Lên ngôi muộn còn có
Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) lúc 43 tuổi và Tiền Ngô Vương ( Ngô Quyền ) lúc
40 tuổi. Đây là 2 vị vua đầu triều, lên ngôi cách nhau 500 năm và đều
phải trải qua chinh chiến gian khổ giành độc lập, chủ quyền cho dân tộc
ta.
4. Lên ngôi sớm nhất:
Vua Lê Nhân Tông, lên
ngôi khi mới được 1 tuổi 6 tháng. Vua là con thứ 3 của Lê Thái Tông.
Thái Tông mất sớm, lúc 19 tuổi, trong vụ án Lệ Chi Viên, 4 tháng sau
thì Nhân Tông lên ngôi, quyền bính lúc này trong tay bà Tuyên Từ hoàng
thái hậu. Nhân Tông ở ngôi được 17 năm thì bị anh là Lê Nghi Dân cùng
đồ đảng nổi dậy giết chết.
Các vua lên ngôi sớm còn có: Trần Thiếu Đế lúc 2 tuổi, Lý Cao Tông lúc 2 tuổi 2 tháng và Lý Anh Tông lúc 2 tuổi 6 tháng.
5. Lên ngôi ngay sau khi được lập làm Thái Tử và là nữ hoàng duy nhất:
Vua
Lý Chiêu Hoàng ( Lý Phật Kim ), lên ngôi tháng 10 năm 1224. Vua là con
thứ của Lý Huệ Tông. Huệ Tông không có con trai phải truyền ngôi cho
con gái rồi đi tu. Chiêu Hoàng ở ngôi được hơn 1 năm thì bị buộc nhường
ngôi cho chồng là Trần Cảnh 8 tuổi, chấm dứt 215 năm trị vì của nhà Lý.
Tuy vậy, nữ hoàng cũng đã có niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo (
1224-1225 ). Năm bà 19 tuổi thì bị phế và giáng làm công chúa do không
có con với Trần Cảnh, thay bà là chị ruột tên Thuận Thiên. Năm 40 tuổi,
bà được đem gả cho Lê Tần, một danh tướng triều Trần, sinh được 2 con,
thọ 60 tuổi.6. Sống thọ nhất:
Chúa
Nguyễn Hoàng, thọ 88 tuổi. Ông là người đầu tiên khai sinh ra lịch sử
nhà Nguyễn 9 chúa 13 vua, dân thường gọi là chúa Tiên. Sự nghiệp của
chúa bắt đầu từ tháng 10 năm 1558 khi vào trấn thủ Thuận Hóa, hòng
thoát khỏi tai mắt của họ Trịnh. Chúa có công mở rộng bờ cõi nước ta về
phía Nam, biên cương trong thời chúa trị vì đến tận tỉnh Phú Yên ngày
nay.
7. Thọ kém nhất :
Vua
Lê Gia Tông, thọ 14 tuổi. Vua kế vị anh mình là Lê Huyền Tông lúc 10
tuổi, tôn mẹ nuôi là bà chính phi của chúa Trịnh Doanh làm Quốc Thái
Mẫu, còn mẹ đẻ chỉ được tôn làm Chiêu Nghi. Vua ở ngôi được 4 năm, đặt
2 niên hiệu, mất năm 1675, không con nối dõi, ngôi báu thuộc về em là
Lê Hy Tông.. Xếp vào hạng này còn có vua Kiến Phúc ( Nguyễn Phúc Ưng
Đăng ) hưởng dương 15 tuổi, vua Lê Túc Tông hưởng dương 16 tuổi.
8. Có nhiều con nhất:
Vua
Minh Mạng, 142 người con. Ngoài bà phi Hồ Thị Hoa ( mẹ vua Thiệu Trị
sau này ), Minh Mạng còn có hàng trăm bà phi, tần khác nữa, trong đó 40
bà có con với vua, tổng cộng được 78 hoàng tử và 64
hoàng nữ. Không kể chuyện hậu cung, Minh Mạng là một ông vua văn võ kim
toàn, đưa nước Việt ta trở thành một trong những nước hùng mạnh nhất
Đông Nam Á thời bấy giờ. Vua ở ngôi 21 năm ( 1820- 1841 ), thọ 49 tuổi.
9. Đăng quang nhiều nhất:
Vua
Lê Thần Tông, hai lần làm vua. Đăng quang lần thứ nhất vào năm 1619, ở
ngôi 24 năm thì nhường ngôi cho con trưởng là Lê Chân Tông. Sau vì Chân
Tông mất mà không có con nối dõi nên Thần Tông phải đăng quang lần nữa
vào năm 1649, hai lần ở ngôi tổng cộng 37 năm, đặt 6 niên hiệu. Khi
mất, vua truyền ngôi cho con thứ là Lê Huyền Tông.
10. Hai vua cùng ở một ngôi:
Nam Tấn Vương ( Ngô Xương Văn ) và Thiên Sách Vương ( Ngô Xương Ngập ), là 2 con của Ngô Quyền,
lên ngôi năm 951. Ban đầu, 2 anh em cùng trông coi việc triều chính.
Sau, anh là Sách Vương chuyên quyền lấn át, ở ngôi được 3 năm thì mất
vì bệnh; em được 14 năm thì tử trận, đất nước rơi vào loạn 12 sứ quân.11. Có tư thế thiết triều xấu nhất:
Vua
Lê Ngọa Triều ( nhà Tiền Lê ). Vua càn rỡ, dâm đãng và tàn bạo, bị bệnh
trĩ nên lâm triều thường phải ngồi mà coi chầu, vậy mới có tên là Ngọa
Triều. Năm 1005, vua giết người anh là Lê Trung Tông mà chiếm được
ngôi. Vua ở ngôi được 4 năm, hưởng dương 23 tuổi, lịch sử chuyển sang
họ Lý.
12. Triều đại truyền ngôi được lâu nhất:
Nhà
Hậu Lê. Xét về danh nghĩa, họ Lê truyền ngôi được 360 năm ( 1428- 1788
), qua 27 đời vua, chia làm 2 thời kỳ: thời Lê sơ gồm 11 vua đầu, đây
là thời kỳ cường thịnh; thời Lê trung hưng gồm 16 vua sau, quyền lực
dần bị lấy mất, chỉ còn danh nghĩa tượng trưng.
13. Có tên tuổi rực rỡ nhất trong thời kỳ trị nước an dân:
Vua
Lê Thánh Tông. Vua là con thứ tư của Lê Thái Tông và mẹ là Ngô Thị Ngọc
Dao, sinh năm 1442, lên ngôi năm 1460 sau khi anh là Lê Nghi Dân bị
giết, ở ngôi 37 năm, đặt 2 niên hiệu là Quang Thuận và Hồng Đức, thọ 55
tuổi. Lê Thánh Tông có tư chất thông minh lại chăm học tập, biết nhiều
lại giỏi thực hành. Dưới triều Thánh Tông về mọi phương diện, nước ta
tiến đến một trình độ cao từ trước chưa bao giờ đạt tới, thanh thế nước
ta bấy giờ lừng lẫy.
14. Để lại dấu ấn xấu xa nhất, bị lên án về tội phản quốc:
Vua
Lê Chiêu Thống. Tháng 10.1788, vua cùng hoàng thái hậu rước 30 vạn quân
Thanh về giày xéo non sông. Chiêu Thống chỉ là niên hiệu, còn miếu hiệu
phải là Lê Mẫn Đế, các sử gia thể theo ký ức không tốt đẹp của nhân dân
về vị vua này nên vẫn gọi là Lê Chiêu Thống. Đây là vị vua cuối cùng
của triều Lê 360 năm, sau sống lưu vong ở Trung Quốc và mất bên đó, năm
28 tuổi.
15. Gần với thời đại chúng ta nhất, đại diện cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam:
Vua Bảo Đại ( Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy ). Vua sinh ngày 22.10.1913, con của Khải Định, lên ngôi ngày 5.1.1926, đăng quang xong lại tiếp tục sang Pháp học. Tháng 9.1932, Bảo Đại về nước, sửa sang triều chính.
Cách
mạng tháng 8 thành công ở Huế, ngày 18 tháng 7 năm Ất Dậu, Bảo Đại thứ
20, tức ngày 30.8.1945, vua Bảo Đại trên lầu Ngọ Môn trao ấn kiếm cho
đại diện của Cách mạng, lá cờ vàng quẻ ly kéo xuống, cờ đỏ sao vàng phấp phới trên cột cờ Phú Văn Lâu, thể hiện sự cáo chung của nền quân chủ. 16. Tự Đức vị vua thể hiện hiếu thảo nhất
là
vị vua hiếu đạo bậc nhất trong 13 vị hoàng đế triều Nguyễn. Mẫu hậu là
bà Từ Dũ được vua săn sóc, tôn kính, vâng lời hết mực. Bà truyền bảo
điều gì đáng lưu tâm, vua liền ghi ngay vào sách tùy thân mà nghiền
ngẫm, gọi là "Từ huấn lục" (sách chép lời mẹ dạy). Trải qua suốt 36 năm
chấp chính ngai vàng, Tự Đức bao giờ cũng dành ngày chẵn vào cung vấn
an sức khỏe mẹ, ngày lẻ thì lo việc triều nghi, chẳng vì ngồi trên chỗ
vạn năng quyền thế mà lơ là phận làm con. Không những thế, có gì lo âu,
vua liền thỉnh ý để được nghe lời dạy bảo. Chính vì thế, bà đã từng đề
nghị giảm thuế má cho dân vào những khi gặp thiên tai, mất mùa, đói
kém, nhà vua đều làm theo ý mẹ. Có lần, ngày mai là đến kỳ giỗ kỵ tiên
đế Thiệu Trị, thế mà hôm ấy nhà vua ham săn bắn, gặp nước lụt chảy mạnh
bất ngờ, quan quân chưa dám dong
thuyền hồi cung, phải mắc kẹt chốn ngoại thành rừng Thuận Trực. Bà Từ
Dũ sai quan Nguyễn Tri Phương đi rước, khi vào cung, vua biết lỗi, dâng
roi, nằm xuống chờ quở phạt. Bà giận, quay mặt chẳng nói, sau mới tha
cho hình phạt, chỉ trách dạy bằng lời mà thôi. Xem thế, đủ biết vua Tự
Đức thờ mẹ rất chí hiếu. Và có nhiều bài thơ nhất
Trong
số 13 vua Nguyễn, vua Tự Đức là người uyên thâm nhất về nền học vấn
Ðông Phương, nhất là Nho học. Vua giỏi về cả sử học, triết học, văn học
nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ. Vua đã để lại 600 bài văn và 4.000 bài thơ văn chữ Hán và khoảng 100
bài thơ chữ Nôm. Thơ văn nhà vua phản ánh một con người nhân hậu, một
tâm hồn đa cảm, một tư chất hâm mộ nghệ thuật. Tư chất ấy cũng biểu lộ
rõ trên nghệ thuật kiến trúc của lăng vua. Sử cho biết chính nhà vua đã
"chuẩn định" (décider) mô thức xây dựng nó. Trong vòng La thành rộng
khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm
trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng, các hệ
thống thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch bát
tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống
nhất, tương quan, gần gũi.17. Nổi tiếng nhân từ độ lượng nhất :
Trần
Hoảng, sinh năm 1240, hai mươi năm làm vua ( 1258-1278 ) hiệu là Thánh
Tông, chăm lo khẩn hoang, giúp đỡ người nghèo an cư lạc nghiệp, khuyến
học, mở nhiều khoa thi tuyển chọn nhân tài.
18. Làm vua xong rồi cắt tóc đi tu ở chùa lâu nhất :
Trần
Khâm ( 1258-1308 ), làm vua hiệu là Nhân Tông 15 năm, 2 lần lãnh đạo
đánh thắng Nguyên Mông xâm lược, xong việc rồi thoái vị, gọt tóc đi tu,
lập ra Thiền tông Trúc Lâm Yên Tử, tông phái đặc sắc đất Việt.
19. Ăn chơi đàng điếm nhất :
Chúa
Trịnh Giang ( 1729- 1740 ), cho em trai tùy nghi làm việc với trăm
quan, để mình rảnh rỗi thỏa sức ăn chơi dâm loạn với hàng trăm cung nữ
phi tần, sai người đào hầm dưới lòng đất, trốn việc chúa, xuống hầm ở
với đàn bà con gái đủ loại tuổi thêm 20 năm nữa mới chết
20. Từ nghèo hèn nhất & tiến nhanh nhất lên ngôi hoàng đế :
Vua Mạc Đăng Dung, từng đi thi đấu vật vào làm lính chuyên cầm tán & vác lọng cho xe vua, sau đó bằng
1 cuộc ép vua Lê Cung xuống chiếu nhường ngôi cho mình lên ngôi báu,
lập tức ông tế trời ở đàn Nam Giao, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, 2 năm
sau ông nhanh chóng nhường ngôi cho con để làm thái thượng hoàng
21. Chết "khổ sở" nhất:
Vua
Mạc Mậu Hợp ( 1562-1592 ), lên ngôi lúc hơn 1 tuổi, ở ngôi 29 năm, sét
đánh không chết; mất kinh thành, chạy trốn, đóng giả nhà sư vẫn bị lộ,
vua xin: " Mấy ngày nay đói khát quá , cho xin 1 bình rượu uống cho
đã". Bị quân Trịnh treo sống trên cây chịu đói khát 3 ngày, rồi đem
xuống chém đầu đóng vào cọc, bêu ngoài chợ 5 ngày.22. Người duy nhất không làm vua nhưng có nhiều con trai làm vua nhất:
Ông
Nguyễn Phúc Hồng Cai, em trai của Tự Đức; vì Tự Đức không có con nên
thực dân Pháp lần lượt đưa 3 con trai của ông lên làm vua với số phận
khác nhau: Kiến Phúc bị đầu độc chết, Hàm Nghi bị đi đày, còn Đồng
Khánh thì rất ngoan ngoãn làm tay sai cho Pháp. Dân Huế có câu ca:" Một
nhà sinh được ba vua,Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài"
23. Cai trị lãnh thổ rộng nhất
Minh
Mạng ( 1820- 1840 ) cai trị lãnh thổ rộng nhất, vì thời đó, triều đình
nhà Nguyễn còn cai trị 1 phần đất phía đông của nước Lào ( Sầm Nưa,
Xavannakhet, Kham Keut, Mương Lam, Sam Teu......) lại bỏ việc " bảo hộ"
Campuchia đổi thành Trấn Tây thành, nhập vào lãnh thổ Đại Nam.
24. Làm vua nhiều " kịch tính" nhất:
Nguyễn
Phúc Hồng Dật ( 1846-1883 ), con út của Thiệu Trị; năm 1883, các quan
sai lính đến xóm nghèo Kim Long đón Dật về cung để đưa lên làm vua mới,
Dật quá sợ khóc thét lên, cố hết sức thoái thác, nhưng lính cứ bắt về
lên ngôi, hiệu là Hiệp Hòa; mấy tháng sau Hiệp Hòa viết chiếu xin thôi
làm vua. Các quan giả vờ đồng ý, cho khiêng võng ra ngoài thành rồi
buộc ép uống thuốc độc mà chết
25. Tàn bạo hạng nhất:
Lê
Oánh ( 1496-1516 ), cháu nội của Lê Thánh Tông, giết vua trước là Uy
Mục, rồi lên ngôi báu, hiệu là Tương Dực, bắt hết cung nhân của vua
quan cũ vào điện trăm nóc để gian dâm suốt ngày đêm; lại bắt sư nữ cởi
truồng ra chèo thuyền ở Hồ Tây để vua vui mắt. Ở ngôi báu được 7 năm
thì bị dân đâm chết, xác bị đem đốt thành tro bụi
26. Loạn luân công nhiên nhất
Nguyễn
Phúc Khoát ( 1714- 1765 ), tục gọi là Chúa Võ, có 18 con trai & 12
con gái, thông dâm với em con chú ruột là Nguyễn Thị Ngọc Cầu, 20 tuổi.
Cuối đời Khoát, các con trai lớn đều bị gạt, bị giết hoặc giam chết
trong ngục tối ( như Nguyễn Phúc Cốn, cha của Nguyễn Ánh - Gia Long sau
này ), để khi Khoát chết, con hoang do Ngọc Cầu đẻ ra tên là Thuần 12
tuổi dễ bề lên ngôi chúa. Sau Thuần bị giết chết ngoài bãi hoang sông
Cửu Long & cũng là kết thúc " sự nghiệp các chúa Nguyễn ở Đàng
Trong".27. Làm thái thượng hoàng lâu nhất:
Trần
Mạnh ( 1300-1357 ), 14 tuổi làm vua, hiệu là Minh Tông, nghe nịnh thần
mà giết oan cha vợ đồng thời là chú ruột; đến 29 tuổi nhường ngôi cho
con để lên làm thái thượng hoàng nhiều năm nhất ( trong 28 năm ), chết
ở tuổi 58.
28. Cứng rắn & tàn bạo nhất:
Trịnh
Sâm ( 1738- 1782 ) nổi tiếng là vị chúa cứng rắn, bạo liệt nhất. Em
trai là Lệ định cướp ngôi, Sâm giết luôn; sau đó tống giam thái tử Lê
Duy Vĩ cho đến chết. Sâm đích thân cầm quân đánh chiếm được đất Thuận
Quảng của chúa Nguyễn, rồi tự phong lên làm Thượng sư Thượng phụ Duệ
Đoan Văn công Vũ đức Tĩnh Vương.
29. Nhát gan nhất:
Chúa
Trịnh Bồng ( 1740-1787 ), kiêu binh đưa lên làm chúa, Bồng nhiều lần
chạy trốn khỏi phủ chúa, sau gọt đầu đi tu lưu động ở Lạng Sơn – Cao
Bằng; hết nạn kiêu binh, các quan tìm thấy, Bồng tự phủ định không phải
là con cháu họ Trịnh; sau lộ tung tích thì vẫn 1 mực chối từ về làm
chúa, tiếp đó lại trốn biệt vào rừng sâu, cho đến khi chết mất tăm mất
tích.
30. Vua duy nhất có nhiều vợ mà không có dù chỉ 1 đứa con:
Nguyễn
Phúc Hồng Nhậm ( 1829- 1883 ), làm vua hiệu Tự Đức, có hơn ba trăm vợ (
trong đó hạ cố lấy cả 1 bà đã từng có chồng, có con với chồng trước )
& cũng dùng thuốc quý “ Nhất dạ, lục giao, sinh ngũ tử” ( 1 đêm, 6
lần gặp vợ, sinh 5 con) như ông nội của Tự Đức là Minh Mạng đã từng có
đến 142 người con, nhưng cuối cùng Tự Đức vẫn là ông vua duy nhất có
rất nhiều vợ mà không có 1 người con ruột nào cả, vậy là tuyệt tự &
mất giống, hichic.
31. Thân Tây & nịnh Tây nhất:
Nguyễn
Phúc Ưng Xụy, tức Ưng Đường, 2 tuổi vào làm con nuôi Tự Đức, 21 tuổi
được Pháp chọn đưa lên làm vua, hiệu là Đồng Khánh, việc đầu tiên là ra
ngay 3 đạo dụ phong cho 3 quan Tây làm “ Bảo hộ quân vương”, “ Bảo hộ
công”, “ Dực quốc công”; mọi sự lớn nhỏ đều nhất nhất làm theo lệnh
Tây, đích thân ông ta ra lệnh trong cung vứt hết rượu ta, ông chỉ
chuyên uống rượu Tây, ở ngôi được 3 năm thì ốm chết. Ở Việt Nam sau này
xuất hiện loại " Bánh trung thu Đồng Khánh". 32. Vua bù nhìn mạt hạng nhất:
Danh
hiệu này của dân chúng Huế khinh bỉ bêu tặng Nguyễn Phúc Bửu Đảo (
1884-1925 ), làm vua lấy hiệu là Khải Định, với câu ca:“ Tiếng đồn Khải
Định nịnh Tây,
Nghề này thì lấy ông này ( là ) tiên sư”
Là
vua đầu tiên ở Việt Nam xuất ngoại, sang tận châu Âu để dự hội chợ
thuộc địa, bị Nguyễn Ái Quốc chế diễu qua vở kịch “Con rồng tre”; tăng
30% thuế trong cả nước để lấy tiền tổ chức sinh nhật lần thứ 40 ( gọi
là Tứ tuần Đại khánh ) của mình. 1 năm sau, Khải Định chết, lễ tang kéo
dài 86 ngày. Ông ta có
12 vợ nhưng không vợ nào có mang; công luận Huế & nhiều sách ghi
rõ, Vĩnh Thụy là con 1 hoàng thân, bà mẹ có mang rồi mới được đưa vào
cung để đẻ & Khải Định nhận là con để khỏi bị mang tội, mang tiếng
là “tuyệt tự”.
33. Bị vu oan nhất:
Thành Thái lên ngôi đúng ngày mùng 1 Tết ( dương lịch là 31/1/1889 ). Ông là vua duy nhất bị Pháp vu cáo là “ điên rồ” rồi hất ra khỏi ngai vàng năm 1906, đẩy đi đày & chết nghèo khổ ở Sài Gòn năm 1954.
34. Vua đầu tiên lấy vợ nước ngoài:
Lê
Duy Kỳ ( 1607- 1662 ), là ông vua đầu tiên lấy vợ người nước ngoài ( Hà
Lan ), tượng bà vợ Tây này hiện vẫn còn trong ngôi điện ở đường vào
thành phố Thanh Hóa ), mặc dù trước đó đã có 5 vợ thuộc 5 dân tộc khác
nhau ( trong đó có Ngọc Trúc, con của chúa Trịnh, vốn là vợ của 1 ông
chú, Kỳ thông dâm rồi cướp về, việc này bia miệng rất chê cười.)
35. Trị vì ngắn nhất:
Lên
ngôi vua được 3 ngày, chưa kịp chọn vương hiệu, thì đã bị em ruột giết
chết, đó là Lê Long Việt ( 983- 1005 ), cũng giống như cha ( Lê Hoàn )
chết không có miếu hiệu; sử về sau gọi là “ vua giữa” ( Lê Trung Tông
), vì sau khi giết anh ruột, Lê Long Đĩnh lên làm vua thứ 3 của nhà
Tiền Lê, kẻ tệ hại nhất trong các vua chúa phá nước hại dân.
36. Vua đầu tiên là người ngoại tộc:
Vua
thứ 8 đời nhà Trần, nhưng vốn lại là người khác họ, đó là Dương Nhật
Lễ, con của kép hát Dương Khương, mẹ có thai bỏ chồng đi lấy Cung Túc
vương Trần Dục ( là em trai nhà vua ), Dục nhận Lễ làm con. Gặp lúc vua
Trần Dụ Tông chết, không có con, cha dượng Trần Dục cũng chết, Dương
Nhật Lễ lên làm vua ( 1369 ) được 1 năm thì bị giết chết.37. Người đầu tiên lãnh đạo quân chống lại phương Tây:
Năm
1644, chúa Nguyễn Phúc Lan là ông vua/chúa đầu tiên dám đứng mũi chịu
sào & cầm đầu đoàn tàu chiến của thủy quân Việt Nam đánh nhau quyết
liệt với 1 hạm đội có nhiều trọng pháo hùng hậu của Hà Lan. Kết quả là ta thắng lớn, tàu địch 1 chiếc nổ tung, 1 chiếc đâm vào đá ngầm mà vỡ, còn chiếc nhỏ nhất bỏ chạy trốn.
38. Có nhiều con làm vua nhất:
Lê
Duy Kỳ ( 1607- 1662 ), ông có tới 4 con trai lần lượt làm vua. Đó là Lê
Duy Hựu ( hiệu là Chân Tông ), Lê Duy Vũ ( Huyền Tông ), Lê Duy Hợi (
Gia Tông ), Lê Duy Hợp ( Hy Tông ), cả 4 vua anh em cùng cha khác mẹ này đã được lịch sử công bằng đánh giá, xếp vào hạng vua “ chẳng có được tích sự gì”.
39. Có nhiều sáng tạo nhất:
Hồ
Quý Ly, tuy chỉ làm vua chưa được 1 năm nhưng triều đại ông nổi tiếng
có nhiều sáng tạo nhất: dùng chữ Nôm thay chữ Hán, phát hành tiền giấy
thay tiền kẽm và bạc, xóa bỏ chế độ dùng nông nô lập đồn điền, lập bệnh
viện chữa bệnh không thu tiền, thống nhất cách cân đo đong đếm, lập
thủy binh giữ sông biển, đúc súng thần công, dựng tuyến phòng thủ dài
hơn 400 km dọc sông Đà, theo sông Hồng xuống đến cửa sông Ninh ( Nam
Định )
40. Có nhiều truyền thuyết nhất:
Ông vua
lên ngôi trên mình phủ nhiều truyền thuyết kỳ ảo nhất là Lý Công Uẩn (
973- 1028 ): không biết cha mẹ là ai, sinh ra trong ngôi chùa ngào ngạt
hương thơm trong 1 đêm rực sáng, 2 bàn tay đủ 4 chữ son sơn hà xã tắc,
học giỏi đến nỗi trời ban tiếng khen xuống, sét đánh tung vỏ cây gạo
làng Cổ Pháp để lộ ra câu sấm nhà Tiền Lê sắp đổ, vua Lý lên ngôi; rồng vàng bay lên đón vua về Đại La dựng kinh đô…..
41. Có nhiều con nhất:
Nếu
như Minh Mạng theo tính số con chính thức là ông vua có nhiều con nhất
với 142 con ( 78 trai, 64 gái ) thì Nguyễn Phúc Chu ( 1691 – 1725 ) là
ông chúa có nhiều con nhất; 17 tuổi làm chúa, tuy chỉ sống đến 51 tuổi
nhưng đã kịp có 146 con, trong đó có 38 con trai; quá đông con nên ông
ta không sao nhớ hết tên, đứa nào vào chào, phải xưng tên, xưng tuổi. Ông có câu thơ: “ Mình tuổi thọ ít, nhưng phúc nhiều….”. 42. Vua duy nhất bị gọi sai tên:
Trong
sách Đại Việt sử ký toàn thư, sử gia Lê Văn Hưu ghi chuyện vua Lê Hoàn
bị gọi sai tên: “Khi vua chết không có miếu hiệu vì 12 con trai đều
khởi binh giành ngôi báu, đánh nhau quyết liệt suốt 8 tháng. Các thái
giám mang xác vua Lê Hoàn đi chôn, nhưng ngu tối cứ theo tục cũ bên Tàu
mà gọi vua đã qua đời là Đại Hành ( nghĩa là quàn tạm vào thân cây to
), cúng tế cũng hô là Đại Hành, sách sử cũng cứ thế chép sai là Lê Đại
Hành”. Cho đến nay, nhiều người cũng vẫn gọi lầm tên vị vua này là “ Lê Đại Hành”. Ngay tại Sài Gòn hiện nay, ở vùng giáp ranh quận 10 & quận 11, cũng có 1 con đường mang tên Lê Đại Hành.
43. Vua duy nhất bị quên mất tên thật:
Vua
bị phần lớn sử sách & người đời quên mất tên thật là Đinh Hoàn (
924- 979 ), đối chiếu trong trang 11, bản thông tin tư liệu số 19 của
Thông tấn xã Việt Nam. Năm 38 tuổi, ông được sứ quân Trần Lãm phong
chức quan “ bộ lĩnh” ( sách báo gọi lầm tên ông là Đinh Bộ Lĩnh ), 44
tuổi làm vua được 5 năm thì bị giết, con nối ngôi được 8 tháng bị phế,
200 năm sau, nhà sử học Lê Văn Hưu bắt đầu gọi ông là “ tiên hoàng”,
con ông là “ phế đế”. Ấy vậy mà ngày nay người ta vẫn tiếp tục mắc sai
lầm khi đặt tên nhiều con đường mang tên Đinh Bộ Lĩnh hoặc Đinh Tiên
Hoàng.
44. Bắt mọi người kiêng theo diện rộng nhất:
Đó
là Lê Lợi, chỉ đúng 5 ngày sau khi lên ngôi, ông bắt kiêng tên người
ông, tên người bà, tên cha, tên mẹ ông, tên của ông & của bà vợ đã
qua đời nhiều năm trước đó, và kiêng cả tên anh của ông, cũng đã qua
đời từ lâu. Riêng tên bà vợ cũ, ông bắt dân kiêng chữ Trần, khiến bao
nhiêu con cháu họ Trần cũ phải đổi sang họ Nguyễn, họ Đặng, họ Mai….Về
sau, cháu nội ông là Lê Tư Thành ( Thánh Tông ) đính chính lại tên bà
nội ông thật ra không phải là Trần, mà Lê Lợi đặt lệ kiêng chữ Trần chỉ
là cốt xóa bỏ họ Trần mà thôi, không ngờ Lê Lợi lại chơi xấu dòng họ
của Trần Hưng Đạo như vậy ( nhờ sự đính chính này của Lê Thánh Tông,
nhiều con cháu trở lại được với họ Trần cũ của mình ).
45. Người duy nhất vừa làm vua, vừa đi tu:
Nguyễn
Phúc Chu ( 1675- 1725 ), tự xưng là Quốc Chúa, sùng đạo Phật, lên chùa
quy y với pháp danh là Thiên Túng đạo nhân; 34 năm cầm quyền cho quan
quân mở đất suốt vùng Ninh Thuận, Bình Thuận và cả Nam Bộ ngày nay. A
di đà Phật.
46. Những ông vua duy nhất có con ruột không mang họ mình:
Tuy
trước đó đã có vợ, ông cựu hoàng Ưng Lịch ( Hàm Nghi ) khi bị đi đày ở
Algeria đã lấy vợ đầm, có 1 con trai, 1 con gái; cựu hoàng Vĩnh San (
Duy Tân ) khi bị đi đày giữa Ấn Độ Dương cũng lấy 2 bà vợ đầm, được 3
con trai, 2 con gái; tất cả 7 người con của 2 ông vua này đều không
chịu mang họ Nguyễn Phúc và đều không biết nói tiếng & viết chữ
Việt Nam. Tiếp
thêm ( do ko mang sách vở mà chỉ ghi theo trí nhớ nên ko cụ thể được
thời gian liên quan tới các sự kiện, nhân vật dưới đây mong bà con
thông cảm)
-
Chúa tại vị ngắn nhất và yểu mệnh nhất là Trịnh Cán, lên ngôi chúa hơn
1 tháng thì bị anh cùng đám kiêu binh lật đổ, sai đó chết vì bệnh tật
-
Người vừa làm chúa vừa làm vua là Nguyễn Ánh, lên ngôi chúa tại Sài Gòn
đúc ấn xưng vương...Sau 1 thời gian tập hợp lực lượng đã đánh bại Tây
Sơn và lên ngôi hoàng đế năm 1802
- Ông vua nhát nhất là Lý Phật Tử
(Hậu Lý Nam Đế). Sau khi đánh bại Triệu Việt Vương, giành ngôi lại cho
họ Lý. Trong vòng mấy chục năm ổn định mà ko lo củng cố quốc phòng, đến
khi quân Lương sang xâm lược chưa đánh đã hàng. Bị sử sách phê phán
mạnh mẽ
-Ông vua duy nhất tử trận ở nước ngoài là Trần Dụ Tông, khi
đó khoảng hơn 40t đích thân đem mấy chục vạn quân đánh Chiêm Thành,
chiếm được kinh đô nhưng do chủ quan kinh địch. Quân Chiêm đặt phục
binh đổ ra tấn công, quân ta bị đại bại, vua Dụ Tông chết trong đám
loạn quân
- Ông vua duy nhất đi thăm ngoại giao ở nước ngoài là vua
Trần Nhân Tông (?) đi thăm Chiêm Thành, trong cuộc thăm viếng này đã
hứa gả Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mân để đổi lại được 2 vùng đất
Thuận-Hóa (khoảng Thừa Thiên Huế,..ngày nay)
Ngoài ra trên danh nghĩa còn có việc vua Quang Trung (giả) sang thăm Mãn Thanh nữa
-Ông
vua trả thù tàn bạo nhất là Nguyễn Ánh (Gia Long) truy sát, giết hại họ
hàng con cháu các tướng lĩnh Tây Sơn, các địa danh liên quan đến Tây
Sơn đều bị triệt hạ, đổi tên. Riêng hoàng tộc Tây Sơn thì bị tru di,
Gia Long từng nói " trẫm vì 9 đời mà trả thù", xương cốt Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ bị quật lên cho lính đái vào, sau đó giã nát tán với thuốc
súng bắn đi. Vua Quang Toản và 1 số tướng lĩnh cốt cán như Bùi Thị
Xuân...bị voi giầy ngựa xé. Sọ vua Quang Trung, Quang Tỏan, Nguyễn Nhạc
bị giam trong nhà lao Thừa Thiên
-Ông vua duy nhất bị lột hoàng bảo
bởi chính bề tôi củ mình là Lê Chiêu Thống. Khi bị quân Tây Sơn đuổi
đánh, vua chạy qua Kinh Bắc thì viên trấn thủ ở đây là Lê Cảnh Thước ko
những ko hộ giá mà còn cho quân lột cả áo hoàng bào của vua. Ông vua
cuối cung của nhà Lê đành gạt nước mắt, ngậm đắng nuốt cay mà đưa cho
chúng-
Người phụ nữ đầu tiên lên làm vua là 2 chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa năm 40, cả 2 được tôn lên làm vua (
Trưng Nữ Vương ) - đồng thời cho xuất hiện chế độ lưỡng đầu chế độc đáo
trong lịch sử VN
- Ông vua nợ lần nhất đó chính là vua Lê Trang
Tông, ông vua đầu tiên của nhag Lê Trung Hưng. Thuở nhỏ có tên tục là
Chổm, do trốn tránh quân Mạc nên theo mẹ về ở làng Kim Lũ ( nay thuộc
Thanh Trì - Hà Nội ), hay vào kinh làm thuê; chắc là do khí tướng đế
vuong nên ăn ở hàng nào hàng đó bắn đắt như tôm tươi. Mọi người thấy
vậy đua nhau chèo kéo cho dù để Chổm ăn nợ, được thể ông vua tương lai
này thả sức chè chén... Sau đó Chổm (t ên chính là Lê Duy Ninh ) được
tướng Nguyễn Kim - 1 cựu thần nhà Lê bí mật đua vào Thanh Hoá sau đó
chạy sang Lào dựng lên làm vua. Đây cũng là ông vua duy nhất lên ngôi ở
nưứoc ngoài...Đến đời Lê Anh Tông chiếm lại Thăng Long, các chủ nợ kéo
nhau đến đòi, vua Anh Tông phải trả nợ cho vị vua tiền nhiệm quá nhiều
tiền, do đó đến khu vực nay gần phố Tống Duy Tân - ĐB Phủ ở Hà Nội đã
ra lệnh chỉ cấm đòi tiền nữa, Do đó phố Tống Duy Tân trứơc đây có tên
cũ là Ngõ Cấm Chỉ
- Người có nhiều chức vị nhất chính là Lý Chiêu
Hoàng, có thể thấy cuộc đời hơn 40 năm đau khổ, chìm nổi của mình bà đã
trải qua các vị trí sau:
+ Công chúa, vì bà là con gái vua LÝ Huệ Tông
+ Thái tử: trước khi truyền ngôi, bà được vua cha phong làm Thái tử
+ Nữ hoàng: sau khi bị ép xuất gia làm sư, Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái, bà lên ngôi lấy hiệu là Chiêu Hoàng
+
HOàng hậu: Trần Thủ Độ đạo diễn cho Chiêu Hoàng lây Trần Cảnh sau đó để
vợ nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh lên ngôi vua (Trần Thái Tông) đã
phong Chiêu Hoàng là hoàng hậu
+ Công chúa: lấy cớ không sinh con
được cho Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ ép vua bỏ vợ và giáng xuống làm
công chúa, cho vào lãnh cung ở
+ Phu nhân tướng quân: sau chiến
thắng Nguyên Mông, vua Trần đem vợ mình gả cho 1 vị tướng có công là Lê
Phụ Trần. Lúc này Chiêu Hoàng là phu nhân của vị tướng này