SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
CỐ VẤN CHUYÊN MÔN
ChauTienLoc
Họ & tên : CHÂU TIẾN LỘC
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Sáng lập viên, Cựu Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ (từ tháng 06/2008 đến 01/2011)
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 823
Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
Điểm thành tích : 1969
Được cám ơn : 665
Tiêu đề: Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi
Thiền sư Lê Mạnh Thát
Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi
(Một giả thuyết khác về nguồn gốc bài thơ “Nam quốc sơn hà…”)
Vì thế, những năm tháng ấy là một giai đoạn đấu tranh khó khăn khốc liệt giữa một bên là một quốc gia rộng lớn, đông người, đã có gần hai thập kỷ hòa bình để phát triển và một bên là một đất nước nhỏ bé, ít người hơn nhiều lần và thời gian hòa bình cũng chưa được bao lâu. Triều đình nhà Tống có lẽ tính toán trên cơ sở một nhận định như thế, nên đã cho tiến hành cuộc chiến tranh năm 981. Lê Đại Hành hiểu rõ ý đồ và tính toán của địch cũng như tiềm lực của ta. Do đó, ông đã chủ động tiếp xúc và vận động toàn dân, trong đó có cả những nhân tài của đất nước tham gia vào cuộc chiến tranh này. Nếu không làm được thì tình hình đất nước có thể đã đi theo một ngõ quanh khác của lịch sử. [473] [1]
[474] Cuộc tiếp xúc và vận động do Lê Đại Hành thực hiện có thể diễn ra dưới nhiều dạng khác nhau. ông đã trực tiếp gặp thiền sư Vạn Hạnh, tính toán về tương quan lực lượng giữa giặc và ta để xem diễn tiến cuộc chiến sẽ diễn ra trong bao lâu. Ông cũng đã nhờ đại sư Khuông Việt đến núi Vệ Linh cầu nguyện cho cuộc chiến chóng thành công. Và đặc biệt chính bản thân vua Lê Đại Hành đã làm lễ tế đền hai vị anh hùng Trương Hống và Trương Hát của cuộc chiến tranh giải phóng do Triệu Việt Vương lãnh đạo vào những năm 548-570 và sự ra đời của bài thơ Thần nổi tiếng Nước Nam sông núi, mà Lĩnh nam chích quái 2 tờ 74-75 đã ghi:
“Triều hoàng đế Đại Hành nhà Lê năm Tân Tỵ Thiên Phúc thứ nhất (981), Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân xâm lược nước Nam, trên sông Đại Than. Vua Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng đóng quân ở sông Đồ Lỗ để chống lại. Hai bên đối lũy giữ nhau.
Vua Đại Hành ban đêm mơ thấy hai người thần vái ở trên sông nói: Anh em thần, một người tên Trương Hống, một người tên Trương Hát, trước thờ Triệu Việt Vương thường theo chinh phạt bọn giặc dữ, mà có được thiên hạ. Đến sau, Lý Nam Đế chiếm nước, nghe tiếng anh em thần, cho vời đến. Thần về nghĩa không thể đến, uống thuốc độc mà chết. Thượng đế thương kẻ có công, mà khen lòng trung nghĩa một tiết, ban cho Tướng quan [475] thần bộ, thống lĩnh kỷ binh. Nay thấy quân Tống vào cõi làm khổ sinh linh nước ta, nên bọn thần đến gặp xin cùng vua đánh bọn giặc này để cứu sinh dân’.
Vua Đại Hành kinh ngạc thức dậy gọi bề tôi hầu cận, nói: ‘Đây là thần giúp ta vậy’. Bèn liền lập tức rước thuyền vua đốt hương làm lễ xin rằng: ‘Thần nhân có thể giúp ta thành được công nghiệp này thì việc phong thưởng và cúng đơm muôn đời sẽ không hết’. Vua cho giết sinh lao để tế, đem các món áo mũ tiền giấy và voi ngựa đốt đi để ban cho. Đêm ấy lại mơ thấy hai thần nhân cùng mặc áo mũ đã ban, đến trước vua bái tạ. Đến đêm hôm sau, vua mơ thấy một thần nhân đem quỉ bộ áo trắng từ phía nam Bình Giang tới, và một vị thần nhân đem quỉ bộ áo đỏ từ sông Như Nguyệt xuống. Cả hai đều nhắm trại giặc mà đánh.
Ngày 2 tháng 10, vào lúc canh ba của đêm, khí trời tối mịt, gió lớn mưa dồn nổ ra, quân Tống tan vỡ. Thần mập mờ đứng trên không trung, cao tiếng ngâm:
Nước Nam sông núi vua Nam ở Rành rẽ phân chia tại sách trời Giặc nghịch sao nay dám đến phạm Chúng bay chuốc bại chắc ngay thôi
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên dĩ định tại thiên thư [476] Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Quân Tống nghe thế chen nhau tứ tán, mỗi tự chạy trốn, bị bắt sông không thể kể xiết. Quân Tông đại bại rút lui. Vua Đại Hành đem quân về mừng thắng trận, phong thưởng cho hai thần nhân, người em là Uy Địch Đại Vương, lập đền tại Tam Kỳ Giang ở Long Nhãn, sai dân Long Nhãn và Bình Giang phụng thờ. Người anh là Khước Địch Đại Vương, lập đền ở sông Như Nguyệt, sai dân ven sông phụng thờ, đến nay vẫn còn.”
Wed Jun 18, 2008 11:31 am
SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
CỐ VẤN CHUYÊN MÔN
ChauTienLoc
Họ & tên : CHÂU TIẾN LỘC
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Sáng lập viên, Cựu Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ (từ tháng 06/2008 đến 01/2011)
Huy chương Cống hiến :
Huy chương thành tích :
Ngày tham gia : 17/06/2008
Tổng số bài gửi : 823
Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích : SV ngành Quản lý Nhà nước - Học viện Hành chính Quốc gia
Điểm thành tích : 1969
Được cám ơn : 665
Tiêu đề: Trang 2
Đây có thể là nguồn thông tin đầu tiên về bài thơ thần Nước Nam sông núi và nguồn thông tin này cho ta thấy bài thơ Thần đã được đọc lên trong cuộc chiến tranh 981 và có liên hệ với vua Lê Đại Hành. Sau này tác giả Thiên Nam vân lục cũng thống nhất coi bài thơ ấy do thần đọc lên trong cuộc chiến tranh đó, dù đã cho hai vị thần này là những bộ tướng của Ngô Quyền, chứ không phải của Triệu Việt Vương. Tuy nhiên, khi Ngô Sĩ Liên đã đưa bài thơ ấy vào trong Đại Việt sử ký toàn thư 3 tờ 9b2-8, thì ông đã gắn cho cuộc chiến năm 1076 của Lý Thường Kiệt. Từ đó mới xuất hiện một ngoa truyền đây là bài thơ của Lý Thường Kiệt:
“Thế truyền rằng, Thường Kiệt dựng rào dọc sông để cố giữ. Một đêm quân sĩ bỗng nghe trong đền Trương tướng quân có tiếng to ngâm rằng:
[477] Nước Nam sông núi vua Nam ở Rành rẽ định phân tại sách trời Giặc nghịch sao nay dám đến phạm Chúng bay chuốc bại chắc ngay thôi
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Rồi sau quả như thế. Trương tướng quân anh em hai người. Anh tên Hống, em tên Hát, đều là danh tướng của Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương bị Lý Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam đế cho vời ra làm quan. Hai người đều nói: ‘Trung thần không thờ vị vua đã hại chúa mình’, rồi bèn bỏ trốn ở núi Phù Long. Nam Đế nhiều lần mời không đáp, ra lệnh: ‘Ai lấy được thủ cấp thì trọng thưởng cho ngàn vàng. Hai người đều uống thuốc độc mà chết.
Nam Tấn Vương nhà Ngô khi đánh giặc Lý Huy châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan, chiêm bao thấy hai người theo giúp quân vua, nói rằng: ‘Thiên đế thương là kẻ trung thần không thờ hai vua, bổ cho làm Than hà long quân phó tuần Vũ Lạng nhị giang và Chi man nguyên tuần giang đô phó sứ. Bình định giặc rồi, Nam Tấn Vương phong anh làm Đại đương giang đô hộ quốc thần vương, dựng đền ở cửa sông Như Nguyệt. Còn [478] em thì làm Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương, dựng đền ở cửa sông Nam Quân, tức đền thờ này”.
Đây là hai nguồn tư liệu chính liên hệ với bài thơ Thần của chúng ta. Ngô Sĩ Liên cho thấy, ông đã lấy thông tin từ “thế truyền”, tức những lời lưu truyền ở đời, để đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư. Mà những lời lưu truyền này chắc chắn đã tồn tại trước thời Ngô Sĩ Liên. Tập hợp đầu tiên các truyện ấy ta có Lĩnh nam chích quái nếu không phải của Trần Thế Pháp, thì cũng của một tác gia thời Trần mạt, tức nửa cuối thế kỷ thứ 14. Điều này có thể chứng minh một cách dễ dàng, khi phân tích các truyện có trong các truyền bản của Lĩnh nam chích quái hiện được bảo lưu.
Chẳng hạn, trong số 22 truyện của nó, có hai cặp truyện chắc chắn là rút ra từ Thiền uyển tập anh. Đó là cặp truyện Từ Đạo Hạnh Nguyễn Minh Không và cặp truyện Dương Không Lộ Nguyễn Giác Hải. Văn cú của hai cặp truyện này trong các truyền bản hiện có hầu như hoàn toàn thống nhất với các văn cú của truyện bốn vị thiền sư có trong Thiền uyển tập anh. Thiền uyển tập anh ta đã biết là phải ra đời vào năm 1337. Do thế, tác giả Lĩnh nam chích quái đã sao lại truyện của bốn vị thiền sư vào trong sách của mình. Đúng là ông đã làm công tác “chích quái”, tức là nhặt lấy những truyện lạ từ các sách khác để tạo nên tác phẩm của mình.
[479] Từ đó chuyện hai vị thần Long Nhãn và Như Nguyệt dù ngày nay ta không có được may mắn như trường hợp truyện bốn thiền sư, chắc chắn cũng phải được tác giả Lĩnh nam chích quái đã trích dẫn từ một văn bản nào đó, mà ngày nay ta chưa thể tìm ra được. (Có người do không nghiên cứu kỹ càng nên đã viện dẫn bừa bãi về nghĩa chữ chích, rồi khen đại là tác giả Lĩnh nam chích quái đã có sự gia công đóng góp của mình. Phân tích truyện bốn thiền sư trên cho ta kết quả hoàn toàn ngược lại. Tác giả Lĩnh nam chính quái đã trích dẫn sao y nguyên văn bốn truyện vừa nêu, dù từ Thiền uyển tập anh hay bất cứ một nguồn nào khác). Dẫu vậy, nếu so với Đại Việt sử ký toàn thư, Lĩnh nam chích quái có một tính cổ sơ và văn bản đáng tin cậy hơn là Đại Việt sử ký toàn thư. Vì thế, bài thơ Thần phải được coi là xuất hiện dưới thời vua Lê Đại Hành trong cuộc chiến tranh năm 981, chứ không phải là trong cuộc chiến tranh năm 1076 với Lý Thường Kiệt.
Xác định thời điểm ra đời của bài thơ như thế, không những phù hợp với nội dung và ý nghĩa của bài thơ như một tuyên ngôn độc lập, mà còn phù hợp với cung cách chỉ đạo chiến tranh của vua Lê Đại Hành. Về nội dung và ý nghĩa, bài thơ Thần đúng là một bản tuyên ngôn cho nhà nước Trung Quốc biết về sự độc lập của đất nước Việt Nam và của nhà nước đang làm chủ đất nước ấy, mà từ thời Ngô Quyền đánh bại quân Nam [480] Hán năm 939 cho đến khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi hoàng đế vào năm 968, những người lãnh đạo nước ta chưa có cơ hội để công bố. Cho nên, nếu coi bài thơ Thần ấy xuất hiện vào năm 1076 thì thật cũng lạ lùng là nước ta độc lập đã gần hai thế kỷ mới có tuyên ngôn độc lập sao?
Còn về cung cách chỉ đạo chiến tranh, ta đã thấy vua Lê Đại Hành nhờ đại sư Khuông Việt đến núi Vệ Linh cầu nguyện, để cho cuộc chiến tranh đi đến thắng lợi hoàn toàn. Khoan nói chi tới việc lời cầu nguyện ấy có được thần linh đáp ứng hay không. Chỉ cần nói rằng mỗi một việc nhờ đi cầu nguyện như thế, vua Lê Đại Hành đã muốn thông qua nó để tác động lên tinh thần quân sĩ. Đây là một công tác tư tưởng chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu gay go sắp tới. Và gay go thật khi quân đội ta đang đối diện với quân đội của một nước to lớn hơn nhiều và đã có những lần thành công đè bẹp được sức chiến đấu của quân đội ta trong những thế kỷ trước. Do thế, yêu cầu công tác tư tưởng là một yêu cầu cấp bách để chuẩn bị cho quân đội chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Từ đó, sự có mặt của hai vị anh hùng Trương Hống, Trương Hát của Triệu Việt Vương và sự xuất hiện bài thơ Thần là một tất yếu. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng bài thơ Thần đã xuất hiện trong cuộc chiến tranh 981, như Lĩnh nam chích quái đã ghi. Những bản [481] Lĩnh nam chích quái về sau như bản Tục loại của Đoàn Vĩnh Phúc chép vào năm Quang Bảo thứ nhất (l500) đã theo Đại Việt sử ký toàn thư và chép bài thơ ấy liên hệ với Lý Thường Kiệt trong cuộc chiến tranh 1076. Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập do Gia Cát Thị thực hiện vào năm Cảnh Hưng Giáp Ngọ (1774) cũng làm thế, nhưng đã cho ta một bài thơ gần như khác hẳn:
Nam bắc phong cương các biệt cư Tinh phân Chẩn Dực tại thiên thư Kình thôn lang phệ chân vô yếm Hội kiến trần thanh tảo thái hư
(Cõi bờ Nam Bắc mỗi riêng nơi Chẩn Dực sao chia tại sách trời Sói cắn kình nhai đâu thấy chán Bụi dơ quét sạch thấy trời tươi)
Bài thơ này có khả năng Gia Cát Thị đã lấy từ một bản nhuận sắc của truyền bản A.2914 của Lĩnh nam chích quái hiện đang được bảo lưu tại thư viện Viễn Đông Bác Cổ nay là thư viện Hán Nôm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư Như kim bắc lỗ lai xâm phạm Hội kiến hải trần tận tảo trừ
[482] Do thế, theo chúng tôi, ta nên trả bài thơ Thần trên về cho cuộc chiến tranh năm 981 và chúng ta đã có đủ cơ sở để làm như thế. Đây không phải là một kết luận mới. Hai bộ sử viết bằng tiếng Việt vào thế kỷ 16 và 17, là Việt sử diễn âm và Thiên nam ngứ lục đều thống nhất có cùng một kết luận. Việt sử diễn âm đã dành một đoạn dài nói về lai lịch của bài thơ này, viết:
Tháng bảy có Tống binh sang Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn Đến thành Phù Lỗ đóng vây Quân ta quân nó đôi bên ngất trời Chưa phân thắng phụ về ai Ngày rằm tháng chạp vua nằm chiêm bao Thấy đôi thần nhân bãi nào Trương Hống Trương Hát bước vào quỳ thưa Chúng tôi thần đế lòng xưa Phụng thờ nhà chúa bấy chừ chẳng sai Tiên Hoàng có sắc chỉ bày Đòi về phong chức cho tôi tước quyền Trung thần bất sự nhị quân Chúng tôi tự vẫn làm thần đạo ngay Thượng đế thấy bộ thương thay Phong chúng tôi rày Quỉ bộ thần quân Đại Hành thức dậy mừng thay Giết trâu liền có minh tài tế khao Đêm sau vua lại chiêm bao [483] Thấy mặc áo mới liền vào tạ ơn Có một người đứng án tiền Lĩnh được trăm áo vàn vàn quỷ binh Lấy ra chưng đất Nam Bình Đại Hành sực thức gẫm tình mới hay Nửa đêm thấy một cơn mây Bạo phong hắc ám gió bay vội vàng Tống binh mất vía trở dường Chúng quỷ đánh gãy đao thương liền cờ Bỗng nghe mảng tiếng không hư Thần nhân hiện xuống có thơ ngâm rằng
Thi vân:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư Như hà Bắc lỗ cảm xâm phạm Hội kiến phong trần tận tảo trừ [2]
Thiên nam ngữ lục có vẻ tiếp thu quan điểm của tác giả Việt sử diễn âm, vì bài thơ Thần hai bản chép tương đối giống nhau:
Bấy giờ binh mã sửa sang Địch cùng Nhân Bảo là thằng giặc Ngô Mười buôn binh mạnh thẳng đua Qua miền Giang Bắc, đây là Phù Lan [484] Đêm thấy hai ngài đến màn Xưng danh là Hát, xưng danh là Hồng Giúp đời Triệu Việt có công Thuở chẳng như lòng, ẩn nội Phù Lan… Ơn trên Thượng đế xét thương Quyền cho chúa tể giữ phương yên này. Bây chừ bệ hạ đến đây Nguyện ra giúp nước phá này giặc Ngô Phán rằng: Tướng quan y như Công nên thời lập miêú thờ trả ơn Ngày sau Nhân Bảo ra quân Trên không nghe tiếng người ngâm thơ rằng: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm Hội kiến phong trần tận khử trừ [3]
Vấn đề tiếp theo là dù thơ Thần đi nữa thì cũng phải do con người làm ra, phải thông qua một con người để đọc lên. Vậy, ai có khả năng có thể làm ra bài thơ này? Để trả lời câu hỏi này, ta thấy trong số những người tham mưu vào bộ chỉ huy của vua Lê Đại Hành trong cuộc chiến tranh năm 981 không ai có nhiều điều kiện gần gũi hơn Pháp Thuận, đặc biệt khi truyện Pháp [485] Thuận đã xác nhận ông là người tham gia "vận trù kế sách" ngay từ lúc vua Lê Đại Hành sáng nghiệp.
Hơn nữa, nếu những văn thư ngoại giao dưới triều Lê Đại Hành là do Pháp Thuận soạn thảo, như trên đã chứng tỏ, thì việc Pháp Thuận sáng tác bài thơ Thần ấy là một kết luận hợp lý. Ngoài ra, Pháp Thuận đã có một hệ tư tưởng chính trị hoàn chỉnh phát biểu trong bài thơ Vận nước dưới đây. Đây là hai yếu tố khác cho phép xác nhận khả năng Pháp Thuận đã sáng tác bài thơ ấy. Thêm vào đó, bài thơ này hòa nhập một cách nhuần nhuyễn và thể hiện được khuynh hướng nổi bật của dòng văn học thời sự chủ lưu các thế kỷ ấy. Khuynh hướng văn học nổi bật đây đã chi phối gần 300 năm phát triển của nền văn học Việt Nam với sự tập trung cao độ của vấn đề nóng bỏng nhất của dân tộc thời bấy giờ là vấn đề làm chủ đất nước.
Từ khi Định Không khai sáng ra dòng văn học này, nó đã liên tục làm chủ sự phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn ấy. Đó là nền văn học phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị vì chủ quyền của đất nước, vì quyền sống của người dân, vì sự hưng thịnh của Phật giáo. Chưa bao giờ trong lịch sử văn học nước ta lại có một sự nhất quán cao độ như thế về cảm thức thời sự của những cây bút anh tài. Dòng văn học này đã qui tụ xung quanh nó một loạt các nhà thơ lớn của dân tộc từ [486] Định Không cho đến Vạn Hạnh, qua La Quí, Khuông Việt, Pháp Thuận, Đa Bảo. Cho nên bài thơ Thần ra đời vào giai đoạn ấy nằm trong xu thế chung của lịch sử văn học Việt Nam ở giai đoạn đó. ________________________________________ Chú thích :
[1]Những con số trong ngoặc vuông để chỉ số trang trong bản gốc. [2]Việt sử diễn âm, AB 110. [3]Thiên Nam ngữ lục, trong Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập III Tu thư Phật học Vạn Hạnh, 1983, tr. 465-467.
Nguồn: Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt nam T.II, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 2001, tr. 473-485.
Fri Apr 06, 2012 3:43 am
Thành viên mới gia nhập
binh nguyen
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia : 06/04/2012
Tổng số bài gửi : 3
Điểm thành tích : 4
Được cám ơn : 0
Tiêu đề: Re: Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi
Thiền sư Lê Mạnh Thát cũng sai. Tác giả bài thơ chắc phải là Đại Sư Khuông Việt, vì năm 981 Thiên sư Pháp Thuận đã già lắm rồi, không thể cùng vua lên phía Bắc đánh giặc Tống. Lúc đó Đại sư Khuông Việt là Tổ trưởng của các nhà sư nên mới được phong là Đại sư. Ngay khi Lê Hoàn chưa lên làm vua, ông đã cử Đại Sư đến một ngôi đền ở vùng Bình Lỗ (Sóc Sơn bây giờ ) để cầu đảo, nghĩa là cầu thần linh phù trợ cho quân ta đánh tan giặc Tống. Quê của Đại Sư lại ở khu vực Nội Bài bây giờ. Sau chiến thắng giặc Tống ông còn được phong lên thành Quốc sư. Còn sư Vạn Hạnh, cha đỡ đầu của Lý Công Uẩn lúc đó còn trẻ. Nếu bài Nam quốc sơn hà của sư Vạn Hạnh thì khi Nhà Lý nắm quyền sẽ phải ghi tên ông vào bài thơ. Nhưng hơn 200 năm dưới triều Lý không có văn bản nào nói về bài thơ này, trong thời gian này bài thơ NQSH phải lưu truyền bí mật trong nhân dân. Truyên thuyết trong bài thơ toát lên một nội dung là hai vị thần Họ Trương là những anh hùng hào kiệt có công đánh đuổi giặc ngoại bang, nhưng lại bị vua mới thuộc họ Lý là Lý Phật Tử truy đuổi phải tự tử. Và muốn nói lên tinh thần "Trung với vua cũ, thà chết không đầu hàng vua mới". Vua cũ là Triệu Việt Vương, ông đã gả con gái cho Lý Phật Tử, nhưng sau đó lại chết vì tay chàng rể này. Chuyện này giống như vua Lê Đại Hành với Lý Công Uẩn. Vậy người viết Truyện đã nhập vào vai hai vị anh hùng họ Trương để nói lên nỗi đau của mình, vậy hai ông này chính là các trung thần của triều vua trước, tướng của nhà Tiền Lê. Bài thơ chỉ xuất hiện ở khu vực sông Như Nguyệt, nơi nước sông Cà Lồ (qua Sóc Sơn hay Bình Lỗ) chảy vào sông Cầu. Vậy tác giả bài NQSH phải là của Đại sư Khuông Việt, là trí thức thời bấy giờ, biết chữ Hán và giỏi thơ văn, cùng đi chiến trận và chịu đựng gian khổ với đức vua. Do bài thơ quá hay nên được lưu truyền trong dân gian. Người lưu giữ bài thơ chính là đám hậu duệ hay tướng lĩnh dưới trướng vua Lê Đại Hành. Dưới triều Lý họ phải lẫn trốn ở các làng mạc dọc sông Cầu và sông Thương, nay vẫn còn trên 300 đền miếu thờ 2 vị thần này. Sang đến đời trần thì bài thơ được ra công khai trong tập Việt Điện U-Linh. Mẹ của vua Trần lúc sách Việt Điện U-Linh ra đời chính là con gái Trần Bình Trọng, một hậu duệ của vua Lê Đại Hành do công với nhà Trần nên được đổi tên sang họ Trần. Lịch sử của bài thơ còn rất nhiều tình tiết ly kỳ, nhưng bài thơ được quảng đại nhân dân ta sử dụng, lưu giữ suốt hơn 1000 năm và trân trọng như nền độc lập của nước nhà.
Tue Apr 17, 2012 9:02 am
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Thành viên năng động
Thanhsamkhach
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích : 679
Được cám ơn : 106
Tiêu đề: Re: Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi
Phân tích văn bản có thể thấy dị bản của Tân đính hiệu bình Việt điện u linh tập do Gia Cát Thị thực hiện vào năm Cảnh Hưng Giáp Ngọ (1774) ko phải là thơ làm thời Tiền Lê hay Lý vì lời thơ văn hoa dùng nhiều điển cố khác với phong thái giản phác thời đầu lập quốc
Nam bắc phong cương các biệt cư Tinh phân Chẩn Dực tại thiên thư Kình thôn lang phệ chân vô yếm Hội kiến trần thanh tảo thái hư
Bản của Lĩnh nam chích quái có vẻ quá thô mộc chưa sửa chữa nên có chỗ trùng lặp từ (câu 2)
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư Như kim bắc lỗ lai xâm phạm Hội kiến hải trần tận tảo trừ
Dù ra đời thời kỳ nào chắc chắn bài thơ ngày nay chúng ta được biết đã qua nhiều sửa chữa Dù sao đó cũng là tác phẩm và sửa chữa của người VN
Sat Apr 21, 2012 10:18 pm
Thành viên mới gia nhập
binh nguyen
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia : 06/04/2012
Tổng số bài gửi : 3
Điểm thành tích : 4
Được cám ơn : 0
Tiêu đề: Re: Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi
Đúng là bài thơ Nam quốc sơn hà có một lịch sử khá đặc biệt. Bài thơ được lưu truyền trong dân gian rất lâu, khoảng 400 năm rồi mới được công bố thông qua sách truyện Lĩnh Nam Chích quái (1554, 1697) và Việt Điện U Linh (1329). Nghĩa là bài thơ đã được truyền miệng qua rất nhiều thế hệ, nên các bản tìm được chỉ là dị bản, nếu có một vài từ sai lệch với bản gốc thì cũng là điều bình thường (như chữ Thiên Thư). Qua đó cho thấy bài thơ đã gắn liền với lịch sử của dân tộc, nuôi dưỡng lòng yêu nước, được nhân dân ta gìn giữ, lưu truyền và hoàn thiện, coi như là một báu vật, vì thế bài thơ mới tồn tại đến ngày nay. Điều đáng chú ý là bài thơ không đứng riêng rẽ mà khi được phổ biến ra công chúng luôn đi liền với câu truyện của hai vị thần Trương Hống và Trương Hát. Cả hai lần xuất hiện đều gắn với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, năm 981 là của vua Lê Đại Hành và năm 1077 của Thái Úy Lý Thường Kiệt, nhất là đều ở khúc sông Như Nguyệt, nơi sông Cà Lồ chảy vào sông Cầu. Câu truyện đi kèm với bài thơ, toát lên một ý là ca ngơi tinh thần chống giặc ngoại xâm của các trung thần, noi theo tấm gương "Trung thành với vua cũ (Triệu Việt Vương) , thà chết không đầu hàng vua mới (Lý Phật Tử). Nội dung giống như mối quan hệ giữa vua Lê Đại Hành với vua Lý Thái Tổ. Trên thực tế Lý Công Uẩn cũng là con rể của vua Lê Đại Hành, ông đã lấy công chúa Lê Thị Phất Ngân. Sau khi hai vua nhà Tiền Lê là Lê Long Việt và Lê Long Đĩnh bị giết thì Triều đình chuyển sang tay nhà Lý. Vì thế khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long thì hoàng hậu (Lê Thị Phất Ngân) buồn rầu, không đi theo mà ở lại Hoa Lư, rồi tu tại một chùa và sống ở đây đến cuối đời. Thời điểm bài thơ được công bố sớm nhất (1329) là thời vua Trần Minh Tông. Biết rằng mẹ của vua Trần Minh Tông chính là con gái của Trần Bình Trọng (một hậu duệ của vua Lê Đại Hành được đổi sang họ Trần). Mà Trần Bình Trọng lại là con của Lý Chiêu Hoàng với Lê Phụ Trần (tức Lê Tần, một tướng giỏi giúp vua Trần nhiều lần đánh tan quân Nguyên). Vì thế bản năm 1329, chỉ nói về việc Lý Thường Kiệt sai người vào ngôi đền bên sông Như Nguyệt đọc to lên bài thơ Nam quốc sơn hà, không đả động đến mối bất hòa giữa nhà Tiền Lê và nhà Lý. Nhưng đến bản năm 1697 thì ghi rõ ràng hơn, nội dung câu truyện phù hợp với trận đánh và lịch sử thời vua Lê Đại Hành. Năm công bố Lĩnh Nam Chích quái là thời vua Lê Hy Tông, khi đó đất nước ta đang ở thời kỳ thịnh trị nhất (thuộc Lê Trung Hưng). Như vậy cả nội dung bài thơ đến cốt truyện đi kèm với nó khá phù hợp với tình hình của mỗi thời điểm lịch sử. Qua đó cho thấy, nhân dân ta đã phải chịu đựng rất gian khổ để gìn giữ và nuôi dưỡng bài thơ. Vì thế còn rất nhiều câu truyện ly kỳ và huyền bí xung quanh bài thơ Thần này.
Sponsored content
Tiêu đề: Re: Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi