CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Tư sản dân quyền
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam I_icon_minitimeWed Sep 14, 2011 8:50 pm

Khánh Trang
Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!

ĐIỀU HÀNH VIÊN

Khánh Trang

ĐIỀU HÀNH VIÊN

https://www.facebook.com/khanhtrangpi
Họ & tên Họ & tên : Trang
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Phó Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ - Trưởng ban Điều hành Diễn đàn
Huy chương thành tích Huy chương thành tích : Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam 36 Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam 6 Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam 40Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam 43
Ngày tham gia Ngày tham gia : 20/02/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 743
Đến từ Đến từ : Đăk Lăk
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!
Điểm thành tích Điểm thành tích : 1281
Được cám ơn Được cám ơn : 208

Bài gửiTiêu đề: Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam

 

Dục Đức
Hiệp Hoà (6/1883-11/1883)
Kiến Phúc (12/1883-8/1884)
Hàm Nghi (8/1884-8/1885)
Đồng Khánh (10/1885-12/1888)
Thành Thái (1/1889-7/1907)
Duy Tân (1907-1916)
Khải Định (1916-1925)
Bảo Đại (1926-1945)
Dục Đức (Làm vua ba ngày)
Trước ngày đǎng quang, Dục Đức bàn với ba đại thần phụ chánh là Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết và Trần Tiến Thành sẽ không đọc một đoạn nhận xét về mình trong di chiếu tại lễ lên ngôi. Cả ba vị phụ chính đều đồng ý. Ngày hôm sau, khi Trần Tiến Thành đọc đến đoạn ấy, hạ giọng xuống hầu như không ai nghe rõ, thì Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết nổi giận bảo Nguyễn Trọng Hợp đọc lại rồi chia quân túc vệ canh gác trong ngoài thành thật nghiêm ngặt và bắt gọn 10 người thân tín của vua nối ngôi trong đó có Nguyễn Như Khuê.
Hai hôm sau, tại buổi thiết triều có đông đủ hoàng thân và đình thần, Nguyễn Vǎn Tường đứng lên tuyên cáo phế truất Dục Đức vì bốn tội:
-Cắt bớt một đoạn trong di chiếu của vua cha.
-Tự tiện đưa một giáo sĩ vào hoàng thành.
-Mặc áo màu xanh trong khi để tang vua cha.
-Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha.

Dục Đức bị tống giam tại một phòng kín vừa được cấp tốc xây lên ngay trong biệt điện mình. Dục Đức bị đối xử như một tù nhân thường. Nhờ người lính gác thương tình chủ cũ, hàng ngày đút cho một nắm cơm và một chiếc áo cũ thấm nước, vắt ra uống, Dục Đức sống thoi thóp được gần một tháng thì chết, xác vùi trên một quả đồi, không quan tài và không ai được đi đưa tang.
Hơn 20 nǎm sau, con trai thứ 7 tức Thành Thái lên làm vua, Dục Đức mới dược khôi phục lại đế hiệu và tôn là "Cung tôn huệ hoàng đế".
Hiệp Hoà (6/1883-11/1883)
Niên hiệu: Hiệp Hòa
Tên thật là Hồng Dật, con thứ 29 và là con út của Thiệu Trị, sinh tháng 9 nǎm Thiệu Trị thứ 7 tức nǎm Bính Ngọ (1846). Nǎm ất Sửu (1865) Hồng Dật 18 tuổi được phong Vǎn Lãng công. Nǎm Tự Dức 31 tức nǎm Kỷ Mão (1879) được tấn phong Lãng Quốc công.
Tháng 6 nǎm Quý Mùi (1883) phế xong Dục Đức, theo ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Vǎn Tường, được ý chỉ của Từ Dụ Hoàng thái hậu, triều đình cử một phái đoàn ra Kim Long rước Lãng Quốc công vào Đại Nội để chuẩn bị làm lễ đǎng quang. Lãng Quốc công khóc mà nói rằng: "Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, không dám nhận ngôi vua". Phái đoàn vừa phải nǎn nỉi vừa dùng vũ lực mới đưa được Hồng Dật vào Cấm thành. Thế là hai hôm sau Lãng Quốc công trở thành vua Hiệp Hòa!
Hiệp Hòa lên ngối ngôi, Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết cậy công tôn lập nên thâu tóm mọi quyền hành, không thèm đếm xỉa gì đến vua. Hiệp Hòa ghét lắm, muốn tước bớt quyền lực của họ. Vua đã kiên quyết điều Tôn Thất Thuyết từ bộ Binh sang bộ Lại. Làm vua được bốn tháng thì Hiệp Hòa nhận được mật sớ của hai người thân tín là Hồng Phi (Tham tri bộ Lại, con trai Tùng Thiện vương) xin giết hai quyền thần Nguyễn Vǎn Tường và Tôn Thất Thuyết.
Hiệp Hòa phê vào sớ: "Giao cho Trần Khanh (Trần Tiến Thành) phụng duyệt", bỏ sớ vào tráp giao thái giám Trần Đại đem đến nhà Trần Tiến Thành ở chợ Dinh Ông. Việc bại lộ, Tôn Thất Thuyết cùng với Nguyễn Vǎn Tường bàn cách phế truất Hiệp Hòa. Họ cho mời các đại thần đến họp, kể tội Hiệp Hòa và Trần Tiến Thành, Hồng Phi và Hồng Sâm có âm mưu dựa vào quân Pháp giết hại hai đại thần phụ chính, với chứng cứ hẳn hoi (tờ mật sớ): Sau ép các quan ký vào tờ sớ đòi phế truất Hiệp Hòa xong, Nguyễn Vǎn Tường, Tôn Thất Thuyết vào cung Diên Thọ xin ý chỉ của Hoàng thái hậu đồng thời cho người dẫn 50 lính vào điện Càn Thành bắt Hiệp Hòa phải tự xử mình theo lệ "Tam ban triều điền" dành cho các đế vương, khanh tướng phạm tội tử hình.
Đang đêm khuya nhà vua mới biết có sự biến, hỏi đến trực hầu, thì chỉ có một vài thái giám. Vua sai thái giám Trần Đạt đem chiếu nhường ngôi tới và xin được trở về phủ cũ. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Vǎn Tường giả vờ nhận lời, cho người đem võng đưa vua và cung phi về phủ cũ ở xã Phú Xuân xong lại bí mật dặn riêng Ông I'ch Khiêm và Trương Vǎn Đễ đón ở cửa Hiều Nhân chặn đường, đưa vua đến nhà Hộ Thành, ép uống thuốc độc tự vẫn.
Riêng Trần Tiến Thành, cáo ốm nằm ở nhà cũng bị lính đến giết chết ngay đêm ấy. Đó là một ngày mùa Đông (29/11/1883). Hiệp Hòa làm vua được 4 tháng, chết 36 tuổi, giao cho phủ Tôn nhân chôn cất theo nghi thức Quốc công.
Kiến Phúc (12/1883-8/1884)
Niên hiệu: Kiến Phúc
Húy là Hạo, tự là Ưng Hỗ, lại có tự là Ưng Đǎng, con nuôi thứ 3 của Tự Đức, sinh ngày 2 tháng Giêng nǎm Canh Ngọ (1870). Nǎm lên hai, (1871) vì Tự Đức không có con, Hạo được kén vào cung, sung làm Hoàng thiếu tử, do học phi Nguyễn Thị Chuyên nuôi dưỡng. Từ nhỏ Hạo đã sớm hiểu biết, ôn hòa, lặng lẽ và sạch sẽ, cẩn thận lời nói và việc làm. Vì thế, Tự Đức rất khen và tỏ ý yêu dấu khác thường. Mùa thu nǎm Nhâm Ngọ (1882) được tới nhà đọc sách gọi là Dưỡng Thiên đường và được vua sai kèm cặp đạo làm vua. Trong di chiếu, Tự Đúc tỏ ý muốn nhường ngôi nhưng vì nhỏ tuổi (mới 14 tuổi) đành thôi.

Tự Đức mất, Hoàng thiếu tử ra ngoài thành, ở nhà Quan xá ngoài của Vụ Khiêm. Mờ sáng ngày 30 tháng 11 nǎm Quí Mùi (1883) được quần thần đón về điện Quan Canh ở sở Tịch Điền. Thấy người đến đón, Hoàng tử sợ hãi, quân lính phải ôm lên võng khênh đi. Đến nơi, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Vǎn Tường báo là xin lập lên làm vua. Hoàng tử trả lời:
- Ta còn bé, sợ làm không nổi.
Hai phụ chánh nói:
- Tiên đế (túc Tự Đúc) đã có ý ấy nhưng chưa kịp làm. Nay là mệnh trời, vậy xin nghĩ đến tôn miếu xã tắc làm trọng.
Xong họ truyền lệnh họp triều thần lại tôn lập vua mới. Thế là ngày 1 tháng 12 nǎm Quí Mùi (1883), Dưỡng Thiện (Ưng Đǎng) lên nối ngôi, niên hiệu là Kiến Phúc. Từ ngày Kiến Phúc lên ngôi thế lực bà Học Phi ngày càng lớn, Nguyễn Vǎn Tường đã nhận ra điều này và hết sức tranh thủ cảm tình của bà. Dịp may đã đến với Nguyễn Vǎn Tường khi nhà vua bị bệnh đậu mùa. Bà Học Phi ngày nào cũng ở cạnh vua còn bé bỏng của mình từ mờ sáng đến nửa đêm. Thế là phụ chính Nguyễn Vǎn Tường tối nào cũng vào chầu Hoàng đế và Hoàng mẫu, có khi đến nửa đêm mới về. Trước thái độ quá ân cần và có chiều lả lơi của Nguyễn Vǎn Tường với bà mẹ nuôi, Kiến Phúc đã tỏ thái độ hết sức khó chịu. Có lần thiu thiu ngủ, nghe được câu chuyện giữa hai người, vua liền quát: "khi nào lành bệnh rồi tao sẽ chặt đầu cả ba họ nhà mi". Tường nghe được bèn xuống thái y viện lấy thuốc pha chế đưa cho Học Phi. Theo lời khuyên của dưỡng mẫu, Kiến Phúc đã uống thuốc đó tới sáng hôm sau thì qua đời.
Ngay chiều hôm đó, tại buổi thiết triều bất thường Nguyễn Vǎn Tường tuyên cáo Kiến Phúc đã bǎng hà vì bệnh tình biến chuyển đột ngột và đưa em ruột là ưng Lịch lên nối ngôi.
Kiến Phúc làm vua được 8 tháng thì mất, mới 15 tuổi.
Hàm Nghi (8/1884-8/1885)
Niên hiệu: Hàm Nghi
Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, em ruột Kiến Phúc. Sau khi Kiến Phúc bị giết, Ưng Lịch mới 13 tuổi và được đưa lên ngôi ngày 1 tháng 8 nǎm Giáp Thìn (1884). Lúc đó hòa ước Giáp thân (6- 6- 1884) đã được ký kết. Lễ đǎng quang của Hàm Nghi không được Nam triều thông báo cho Khâm sứ Pháp tại Trung kỳ, vì thế Rê-na không thừa nhận vua mới. Chúng yêu cầu mời các đại thần cơ mật sang tòa Khâm sứ để bàn định nghi thức gặp gỡ giữa vua Hàm Nghi và đại diện tối cao của chính phủ Pháp song Tôn Thất Thuyết từ chối. Tướng Đờ Cuốc-xy dọa sẽ đem quân sang bắt. Trước tình thế không thể trì hoãn, nửa đêm ngày 7 tháng 7 nǎm ất Tị (1885) Tôn Thất Thụyết ra lệnh tấn công bất ngờ vào đồn Mang Cá và đồn Pháp cạnh tòa Khâm sứ. Quân Nam đánh rất hǎng hái, song vũ khí quá thô sơ và giao liên non kém nên chỉ mấy giờ sau, bị thất bại. Kinh thành Huế thất thủ. Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tập hợp tàn quân chực sẵn ở cửa Chương Đức, vào cung đón Vua và tam cung chạy khỏi Hoàng thành, xa giá ra Quảng Trị. Đạo Ngự có hơn ngàn người, phần đông là các đại thần, ông hoàng bà chúa, già có, trẻ có, đi kiệu, đi ngựa và đi bộ. Hoàng tử Chánh Mông cưỡi ngựa vì chạy nhanh, tiền vàng trong người rải khắp dọc đường. Có bà chúa ôm con khóc sướt mướt trên kiệu. Hàm Nghi ngồi kiệu lâu, kêu mệt, phải chuyển sang nằm võng.
Qua hai ngày đi đường, đoàn ngự ra đến Quảng Trị - Tỉnh Quan Quảng Trị ra ngoài thành rước nhà Vua và tam cung vào ngự ở hành cung. Chiều 8 tháng 7 nǎm 1885 theo lệnh của Từ Dụ Hoàng thái hậu, vǎn võ đại thần họp ở hành cung. Theo ý Từ Dụ Hoàng thái hậu, Tôn Thất Thuyết chia đạo ngự ra làm hai đoàn: một đoàn theo Từ Dụ trở lại Huế gồm các hoàng thân và quan lại già yếu hoặc nặng gánh gia đình cùng phụ nữ yếu đuối Một đoàn theo Vua ra Tân Sở xây dựng cǎn cứ chống Pháp. Cǎn cứ Tân Sở nằm trên cao nguyên miền Trung, phía Tây là Lào, Đông là trảng cát khô cằn tinh Quảng Trị. Đây là vùng khí hậu khắc nghiệt, cây cối thưa thớt cằn cỗi, mùa hè gió Lào mù mịt, nóng như thiêu đốt. Sau ba ngày ở Tân Sở, Hàm Nghi đòi Tôn Thất Thuyết cho người đưa về Huế. Song trước thái độ kiên quyết của Tôn Thất Thuyết, nhà Vua dần dần hiểu ra và quyết tâm kháng chiến. Hàm Nghi đã phê chuẩn Chiếu Cần Vương với ý thức trách nhiệm rất rõ ràng của một ông vua khi có ngoại xâm. Hưởng ứng Chiếu Cần Vương, dân chúng và sĩ phu cả nước liên tiếp đứng dậy cầm vũ khí chống Pháp. Thực dân Pháp vô cùng lúng túng trước phong trào Cần Vương, đã tìm cách bắt cho dược Hàm Nghi để dẹp phong trào từ đầu não. Dùng kế phản gián, thực dân đã lùa bắt được Hàm Nghi, tại cǎn cứ ở Hà Tĩnh, đưa xuống thuyền đưa về
Huế ngày 14 tháng 11 nǎm Mậu Thân (1888). Bấy giờ Vua mới 17 tuổi. Pháp tìm mọi cách thuyết phục Hàm Nghi cộng tác, làm bù nhìn song đều bị nhà Vua thẳng thắn khước từ.
- Tôi, thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa.
Không mua chuộc nổi, thực dân Pháp đẩy nhà Vua đi an trí tại An- giê (thủ đô Angiêri, thuộc địa của Pháp). Tại đây, Hàm Nghi được đến ở biệt thự thuộc làng Enbia, ngoại ô An- giê. Lúc đầu, nhà Vua Tẩy chay không chịu học tiếng Pháp. Về sau nghĩ lại, nếu không học thì khó mà hiểu được vǎn hóa Pháp và thế giới, nhà Vua đã học và biết nhanh chóng làm chủ được ngôn ngữ Pháp. Hiểu sâu sắc về vǎn chương, mỹ thuật Pháp, sau trở thành một họa sĩ có tài. Dù vậy, về nhà, Vua vẫn giữ nguyên tập tục dân tộc: đầu búi tó, quần the, áo dài Việt Nam.
Hội họa, âm nhạc và một gia đình nhỏ gồm một vợ và một con gái đã giúp Hàm Nghi khuây khỏa phần nào nỗi đau của người dân mất nước, của một ông vua bị đi đày xa. Vua đã sống ô An- giê 47 nǎm, thọ 64 tuổi.

Đồng Khánh (10/1885-12/1888)
Niên hiệu: Đồng Khánh
Sau khi đày Hàm Nghi sang Angiêri, thực dân Pháp bàn với đại thần cơ mật Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình lập Kiến Giang quận công làm vua mới.
Kiến Giang quận công tên thật là Ưng Đường, sinh ngày 12 tháng 1 nǎm Giáp Tí (1864) con trưởng của Kiên quốc công Hồng Cai, mẹ là Bùi Thị. Nǎm ất Sửu (1865) lên hai, được đưa vào cung làm con nuôi thứ 2 của Tự Đức. Nǎm Quí Mùi (1883) được sắc phong là Kiến Giang quận công. Ngày 19 tháng 9 nǎm Â't Tỵ (1885) dưới quyền bảo trợ và quyết định của Giám quốc người Pháp, ưng Đường được lập lên làm vua lấy hiệu là Đồng Khánh. Ngay từ đầu vua đã trở thành công cụ trong tay người Pháp. Lễ rước vua mới từ Phủ Vǎn Lâu vào điện Càn Thành do Đờ Cuốc- xy và Sǎm pô dẫn dầu. Dọc đường rước vua đi qua có lính Pháp bồng súng và lính Nam vác gươm giáo đứng bảo vệ. Lên ngôi, Đồng Khánh không quên ơn người đã tạo dựng cho mình nên ban liền ba đạo dụ phong Đờ Cuốc- xy tước "Bảo hộ quân vương", phong Sǎmpô tước "Bảo hộ công" và tướng Oa- rơ- nô tước "Dực quốc công". Đồng Khánh còn nhờ Đờ Cuốc- xy chuyển tới tổng thống Pháp bức điện thư cảm ơn nước Đại Pháp đã hết lòng vun trồng cho mình và cam đoan sẽ mãi mãi giữ trọn tình giao hảo giữa hai nước. Từ đó, ngày nào, Vua cũng tiệc tùng với các quan chức cao cấp Pháp, nhất là sau khi đã cưới con gái Nguyễn Hữu Độ.
Đồng Khánh càng thân Pháp thì phong trào Cần Vương chống Pháp càng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận: "Chưa hề ở xứ nào, thời nào có một ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh!" Đồng Khánh cũng tự thú nhận: "Không đời nào tôi có thể tin rằng Hà Tĩnh, Quảng Bình trung thành với tôi vì hai tỉnh ấy có nhiều sĩ phu quá!"
Song đời làm vua của Đồng Khánh không được lâu, ngày 25 tháng 12 nǎm Quí Mùi (1888), Đồng Khánh chết bệnh tại chính điện Càn Thành (Huế), mới 25 tuổi, ở ngôi 3 nǎm, có 9 người con (6 nam, 3 nữ). Dược tôn miếu hiệu Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế.

Thành Thái (1/1889-7/1907)
Niên hiệu: Thành Thái
Sáu người con trai của Đồng Khánh đều còn quá nhỏ. Vâng ý chỉ của Lưỡng Tôn Cung (Nghi thiên chương Hoàng hậu - vợ Thiệu Trị và Lệ Thiên anh Hoàng hậu -vợ Tự Đức) triều đình đón người con thứ 7 của Dục Đức (đã bị phế truất) là Hoàng tử Bửu Lân khi đó mới 8 tuổi lên làm vua.
Chuyện kể rằng: khi triều quan đến nhà rước Hoàng tử vào hoàng thành làm lễ đǎng quang thì mẹ là Từ Minh đi vắng. Ông hoàng bé bỏng run sợ, nói: - Các ông đến làm chi? Bắt tôi à? Các ông muốn làm chi thì làm nhưng phải đợi ả tôi (mẹ tôi) về đã. Khi Từ Minh về, biết chuyện con mình bị bắt đi làm vua, bà òa khóc, nghẹn ngào nói:
Lạy các quan! Xin các quan tha cho mẹ con tôi!
Tôi không bao giờ quên cái chết vô cùng thê thảm của chồng tôi (tức vua Dục Đức). Tôi cũng không quên rằng các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc đều đã bị giết và vua Hàm Nghi thì bị đi đày.
Sau một hồi khuyên giải của hàng xóm có mặt lúc đó Từ Minh mới để cho người ta bế con lên kiệu rước đi Sau dó 3 giờ, chú bé Bửu Lân trở thành hoàng đế Thành Thái.
Thành Thái thông minh, lên 4 - khi vua cha bị truất - đã phải sống ở ngoài thành với bà con lao động, chia sẻ gian khổ với những người nghèo khó trong cảnh nước mất nhà tan. Vì thế, làm vua, tuy mới 10 tuổi, Thành Thái đã sớm có ý thức về quốc sự và rất ham hiểu biết. Vua thích đọc các tân thư chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ đó, Thành Thái có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải cách. Song mọi dự định cách tân đất nước của vua đều bị thực dân Pháp ngǎn chặn.
Khâm sứ Pháp lo ngại một điều là Thành Thái rất gần dân, thương dân và hay vi hành. Có lần Thành Thái đi chơi bộ trên cầu Gia Hội sắp gặp một người vác tre. Quân lính vội chạy lên trước, dẹp dường. Vua bảo:
- Cứ để cho người ta đi! Mình dân không phải là dân, vua không phải là vua tại sao dẹp người ta?
Nhiều chuyến sǎn bắn ở Cổ Bi (cách Huế khoảng 30 km) Vua thường ghé vào chơi các làng dọc sông Bồ. Vào làng, Vua cho trải chiếu ngồi giữa đất, dân làng bu lại xem. Nếu lính đuổi Vua không cho và hỏi dân muốn gì? Dân bảo muốn xem bắn, Vua liền giương súng bắn cho họ xem.
Khâm sứ Pháp và quần thần Nam triều xu nịnh rất muốn truất ngôi của Thành Thái để thay bằng một vua bù nhìn khác. Họ phao tin, nhà vua bị điên để hạ uy thế. Khâm sứ Lê- véc- cơ rất tức tối sau nhiều lần nhà vua không làm theo ý hắn. Ngày 29 tháng 7 nǎm 1907(Bắt đầu từ đây không dùng ngày âm lịch vì sang thế kỷ 20).
Lê- véc- cơ nói thẳng với Vua: Nhà Vua không thành thật công tác với chính phủ bảo hộ thì nay mọi việc đều do Hội đồng thượng thư tự quyết đoán. Nhà Vua đã hết quyền hành và không được ra khỏi nơi Đại Nội dành riêng cho vua.
Ngày 3 tháng 9 nǎm 1907, triều thần được lính của Pháp vào điện Càn Thành dâng Vua dự thảo chiếu thoái vị với lý do sức khỏe không đảm bảo, xin tự nguyện rút lui. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái nhếch mép cười, ghi ngay hai chữ "phê chuẩn" quay lưng đi vào.
Ngày 12 tháng 9 nǎm 1907 thực dân Pháp cho áp giải vào Sài Gòn rồi đưa đi quản thúc tại Cáp Xanh Giắc cơ (Cap saint Jacques), đến nǎm 1916 thì đày ra đảo Rê- uy- ni- ông (Réunion) cùng với con là Duy Tân. Như vậy Thành Thái làm vua được 18 nǎm, phế truất nǎm 28 tuổi. Sau 31 nǎm bị đày, nǎm 1947, ông được phép trở về Tổ quốc nhưng buộc phải ở Sài Gòn để Pháp dễ bề kiểm soát. Mãi đến tháng 3 nǎm 1953, thực dân Pháp mới cho ông về thǎm lǎng tẩm cha mẹ, ông bà ở Huế sau lại phải trở vào Sài gòn. Thành Thái mất tại Sài Gòn ngày 24 tháng 3 nǎm 1954. Con cháu đưa ông về chôn ở Huế, thọ 74 tuổi. Không có miếu hiệu.

Duy Tân (1907-1916)

Niên hiệu: Duy Tân
Gạt xong Thành Thái, thực dân Pháp định dùng con của Thành Thái là Hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Chúng không ngờ được rằng vị vua trẻ này còn có thái độ chống lại kiên quyết và tích cực hơn vua cha.
Từ khi còn nhỏ, Vua đã có những việc làm và lời nói cương nghị, chống Pháp rất quyết liệt. Có lần, ngồi câu trước bến Phu Vǎn Lâu cùng với thầy học là Nguyễn Hữu Bài, Vua ra vế đối:
"Ngồi trên nước không ngǎn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần".
Nguyễn Hữu Bài đối lại:
"Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó".
Mặt đượm buồn, Vua nói: hóa ra thầy là người cam chịu bó tay trước số mạng. Theo ý trẫm, sống như thế thì buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khổ, khó khǎn đề tiến lên thì mới sống có ý nghĩa.
Cuối nǎm 1916, được một tổ chức cứu nước giúp đỡ, Duy Tân đã bí mật gặp hai nhà chí sĩ của Việt Nam Quang phục hội (Phan Bội Châu chủ xướng) là Trần Cao Vân và Thái Phiên bàn mưu khởi nghĩa đánh Pháp. Vua đã chủ động tham gia và quyết định đẩy ngày khởi nghĩa lên sớm hơn để khỏi lỡ thời cơ. Không may, bị lộ, Duy Tân bị giặc Pháp bắt tại một ngôi chùa ở Quảng Ngãi ngày 6 tháng 5 nǎm 1916 cùng nhiều chiến sĩ cứu nước khác. Giặc dụ dỗ, Duy Tân khẳng khái trả lời: Nếu các người dùng bạo lực bắt ta thì cứ bắt, còn ta, nhất định không về!
Toàn quyền Pháp ở Hà Nội đích thân ra gặp và dụ dỗ Vua trở lại ngai vàng. Nhà vua bình thản trả lời:
- "Các ngài muốn buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi thư tín và chính kiến với chính phủ Pháp".
Không chấp nhận được, toàn quyền Pháp lệnh cho Khâm sứ đưa Duy Tân vào tạm giữ ở đồn Mang Cá và giao cho Nam triều trong một tuần phải thuyết phục được nhà Vua thay dổi chính kiến. Cuối cùng, không chịu khuất phục thực dân Pháp và tay sai, Duy Tân đã bị lưu đày sang đảo Rêuyniông. Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều bị chém đầu. Theo Vua đi đày có Hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, Hoàng qúi phi Mai Thị Vàng và em ruột là Mệ Cưởi mới 12 tuổi. Lúc theo chồng lên đường bà Mai Thị Vàng đã có mang 3 tháng và bị sẩy thai. Sau hai nǎm ở đảo Rêuyniông, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn, mẹ, vợ và em Vua cùng nhau trở về Tổ quốc. Nǎm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho hội đồng tộc kèm giấy ly hôn bà Mai Thị Vàng, xin Hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Lúc đó, bà mới 27 tuổi, nhưng cương quyết thủ tiết với chồng.
Sau khi đã ly dị bà Vàng, Duy Tân đã lấy một người phụ nữ địa phương, từ 1929 đến 1939, sinh được bốn con, ba trai một gái. Rồi không rõ bà vợ này đã chết hay bỏ nhau, cựu hoàng lại lấy một người ở thủ đô Xanh Bơ noa và sinh được một gái.
Trong chiến tranh chống phát xít 1939- 1945, Duy Tân tình nguyện gia nhập quân đội của "nước Pháp tự do" và khi đồng minh chiến thắng, ông được giải ngũ với hàm thiếu tá không quân. Việc làm này của ông bị vua cha là Thành Thái phản đối kịch liệt. Tháng 10 nǎm 1945, Duy Tân chấp thuận lời đề nghị của tổng thống Pháp Đờ Gôn trở về Việt Nam nhưng bị tai nạn máy bay và mất trên đường đi thǎm vợ con ở đảo Rêuyniông, thọ 46 tuổi. Không có miếu hiệu.

Khải Định (1916-1925)
Niên hiệu: Khải Định
Khải Định tên thật là Bửu Đảo còn gọi là Hoàng thân Phụng Hóa, con Đồng Khánh, sinh nǎm 1884. Từ 1907, sau khi phế truất Thành Thái, thực dân Pháp định đưa Bửu Đảo lên ngôi vua để nối tiếp dòng vua bù nhìn Đồng Khánh. Khi giải quyết vấn đề này, nhiều đình thần tỏ ý không muốn đặt lên ngai vàng một người "vô hậu" (tuyệt tự). Pháp đành phải chấp nhận Duy Tân. Duy Tân bị đi đày, Pháp đưa Bửu Đảo lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định, 32 tuổi.
Đây là một ông vua bù nhìn mạt hạng. Nhân dân Huế đã truyền miệng câu ca phổ biến về Khải Dịnh:
"Tiếng đồn Khải Định nịnh tây
Nghề này thì lấy ông này tiên sư".
Tháng 4 nǎm 1922, trước ngày sang Pháp dự hội chợ Mác- xây, Khải Định cho làm lễ sắc lập Nguyễn Vĩnh Thụy làm Đông cung Hoàng thái tử. Ngay sau khi trở thành người kế vị, Vĩnh Thụy 10 tuổi, được trao cho Khâm sứ Sác- lơ mang về Pháp đào tạo.
Ngày 20 tháng 5 nǎm 1922, Khải Định sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Mác- xây. Đây là lần đầu tiên, một ông vua triều Nguyễn sang nước ngoài. Sự kiện này giúp thực dân Pháp tô vẽ cho công cuộc chinh phục và khai hóa của họ ở thuộc địa. Chuyến đi của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm lật tẩy bộ mặt phản dân hại nước của hắn trước công luận Pháp. Đáng chú ý hơn cả là những bài báo đanh thép của Nguyễn A'i Quốc cùng vở kịch "Con rồng tre" được công bố, biểu diễn tại Pháp và bản thân "Thất điều trần" của Phan Chu Trinh:
Tháng 9 nǎm 1924, Khải Định tổ chức lễ tứ tuần đại khánh (mừng thọ tuổi 40) rất lớn và tốn kém. Hầu hết các tỉnh Bắc kỳ, Trung kỳ phải gửi tặng phẩm về mừng vua. Sau lễ mừng thọ này, ngân sách Nam triều kiệt quệ, Khải Định chỉ lệnh tǎng thêm 30% thuế.
Tứ tuần đại khánh được 1 nǎm thì Khải Định qua đời ngày 6 tháng 11 nǎm 1925, lễ tang kéo đến 31 tháng 1 nǎm 1926.
Khải Dịnh có 12 vợ nhưng vô sinh. Đông cung thái tử Vĩnh Thụy là con của người khác, được vua nhận là con mình. Vì thế, lúc Vĩnh Thụy còn nhỏ và đang tu nghiệp tại Pháp, người ta đã thay bằng một hội đồng phụ chính có sự can thiệp của Toàn quyền Đông dương.

Vị Hoàng đế cuối cùng (1926-1945)
Niên hiệu: Bảo Đại
Khải Định qua đời, Toàn quyền Đông Dương và hội đồng phụ chính đã ký một bản "qui ước" ghi rõ: Trong khi Vua còn ở nước ngoài, Hội đồng phụ chính được quyền thay mặt điều hành mọi việc triều đình, đồng thời từ nay chỉ những lệ định có liên quan đến điển lệ, ân thích, ân xá, tặng phong các hàm tước, chức sắc... thì do hoàng đế ban dụ. Mọi việc khác đều thuộc quyền nhà nước Bảo hộ. Vǎn bản này còn sáp nhập ngân sách Nam triều vào ngân sách Trung kỳ và mọi cuộc họp bàn của Hội đồng thượng thư phải do Khâm sứ Trung kỳ chủ tọa. Như vậy là bằng vǎn bản trên, thực dân Pháp đã hoàn toàn thâu tóm mọi quyền lực của Nam triều ngay cả trên địa bàn Trung kỳ. Triều đình Huế chỉ còn là bộ máy tay sai do thực dân trả lương mà thôi.
Sau 10 nǎm đào tạo ở "Mẫu quốc", ngày 16 tháng 8 nǎm 1932, Bảo Đại cùng triều quan, xuống tàu "Đác ta nhǎng" (D'artagnan) về nước. Ngày 10 tháng 9 nǎm 1932, Bảo Đại ra đạo dụ số một tuyên cáo chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ Nam triều. Vǎn bản này hủy bỏ "Quy ước" ngày 6 tháng 11 nǎm 1925 lập ra sau khi Khải Định mất. Nǎm sau (1933), Bảo Đại cho ban hành hàng loạt chính sách cải cách, thực chất chỉ là hình thức mị dân thôi. Bảo Đại có một thú vui duy nhất là đi sǎn ở vùng cao nguyên miền Trung, nghỉ ngơi với mỹ nữ tại Đà Lạt cùng nhiều danh lam thắng cảnh khác. Do xếp đặt của thực dân Pháp, ngày 20 tháng 3 nǎm 1934, Bảo Đại cưới con gái một điền chủ Nam kỳ, mang quốc tịch Pháp theo Đạo Thiên chúa, tên là Mariette Jeanne Nguyễn Thị Hào, tức Nguyễn Hữu Thị Lan. Cuộc hôn nhân này càng khép chặt Bảo Đại hơn nữa vào vòng tay khống chế của Pháp. Đây là trường hợp thứ hai một ông vua nhà Nguyễn lập Hoàng hậu khi đương ngôi: Nam phương Hoàng hậu.
Ngày 30 tháng 8 nǎm 1945. Sau 80 nǎm nô lệ, quần chúng cách mạng cả nước dưới sự lãnh đạo của Việt Minh và Hồ Chủ Tịch, dấy lên như vũ bão, trước hơn 5 vạn nhân dân thành phố Huế tập trung ở cửa Ngọ Môn, Bảo Đại tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm cho đại diện chính quyền Cách mạng, và tuyên bố "làm công dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ".
Sau đó, công dân Vĩnh Thụy được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn cho Chính phủ lâm thời mới thành lập Nǎm 1946, trong chuyến đi cùng phái đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trung Quốc, Bảo Đại đã ở lại nước ngoài. Tháng 4 nǎm 1949 lại được đưa về nước tham chính nhưng Bảo Đại lại bị Ngô Đình Diệm lật đổ. Tháng 10 nǎm 1956, Bảo Đại sang Pháp sống lưu vong.
Như vậy từ thuở các vua Hùng dựng nước, đến vị hoàng đế cuối cùng - Bảo Đại trị vì, nước ta trải hơn 4000 nǎm lịch sử với những thǎng trầm của hơn 20 triều đại, các ông hoàng, bà chúa. Nǎm 1945 cách mạng tháng Tám thành công - vị hoàng đế cuối cùng thoái vị, chấm dứt thời kỳ phong kiến tập quyền lâu dài, lịch sử Việt Nam lật sang trang mới - hình thành một nhà nước Việt Nam - Độc lập -Dân chủ.
Chữ ký của Khánh Trang




 

Thời kì thuộc Pháp - các vị vua cuối cùng của Việt Nam

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: VIỆT SỬ :: Lịch sử Việt Nam cận – hiện đại-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất