CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Tư sản dân quyền
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 CHỨNG MINH NAM KỲ LÀ XỨ TRỰC TRỊ CUẢ PHÁP

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
CHỨNG MINH NAM KỲ LÀ XỨ TRỰC TRỊ CUẢ PHÁP I_icon_minitimeWed Apr 06, 2011 1:46 pm

phangxehana
lịch sử

Thành viên cấp 1

phangxehana

Thành viên cấp 1

Họ & tên Họ & tên : Nguyẽn Thị Én
Ngày tham gia Ngày tham gia : 11/10/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 32
Đến từ Đến từ : Nam Định
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : lịch sử
Điểm thành tích Điểm thành tích : 68
Được cám ơn Được cám ơn : 4

Bài gửiTiêu đề: CHỨNG MINH NAM KỲ LÀ XỨ TRỰC TRỊ CUẢ PHÁP

 
I. Khái quát về Nam Kỳ

Bản đồ xứ Nam Kỳ 1872 với sáu tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên
Nam Kỳ là vùng đất cực nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam. Trước kia đây là lãnh thổ của nước Phù Nam và Chân Lạp.
Vào thế kỷ 17, nơi đây là vùng đất hoang sơ, được Chúa Nguyễn ở Đàng Trong khai phá. Một số quan lại, tướng tá nhà Minh sau khi chống nhà Thanh thất bại, trốn sang Việt Nam được Chúa Nguyễn cho khai phá vùng này. Một nhóm khoảng 5000 người Hoa do Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên cầm đầu vào khai khẩn vùng Mỹ Tho, Biên Hòa, một nhóm khác do Mạc Cửu cầm đầu tiến vào tận Hà Tiên khai khẩn.
Thời nhà Nguyễn, Nam Bộ xưa được mệnh danh là xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ Gia Định bao gồm toàn thể đất Nam Bộ và tồn tại suốt từ đó đến năm 1802 thì đổi thành trấn Gia Định.
Năm 1808, vua Gia Long nhà Nguyễn đổi trấn Gia Định thành Gia Định Thành, bao gồm 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (sau chia ra Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường (sau này là Định Tường) và Hà Tiên.
Vua Minh Mạng năm 1832 đã đặt ra Nam Kỳ và chia thành 6 tỉnh nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh hay Lục tỉnh. Đó là các tỉnh: Phiên An, năm 1836 đổi thành Gia Định (tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn), Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa), Định Tường (tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho) ở miền Đông; Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long), An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc) và Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở miền Tây.
Sau khi Việt Nam giành được độc lập năm 1945, Nam Kỳ được gọi là Nam Bộ. Việt Nam Cộng hòa dùng tên gọi Nam phần, vốn được sử dụng từ năm 1949 bởi chính phủ Bảo Đại.
Trong tiếng Pháp, Nam Kỳ được gọi là Cochinchine. Có nhiều giả thiết khác nhau về tên gọi này. Tuy nhiên, giả thuyết phổ biến nhất là tên gọi Cochin hay Cocin gốc từ Coci là phiên âm của chữ Giao Chỉ. Do sợ nhầm với thành phố cảng Ấn Độ Cochin, nên người phương Tây thêm hậu tố chine /china (Trung Hoa), ý nói Cochin gần Trung Hoa để phân biệt.
Từ Cochinchine (hoặc các biến thể Cocinchina, Cauchinchina, Cochinchina) ban đầu dùng để gọi toàn bộ Việt Nam. Đến đầu thế kỷ 17, khi Trịnh-Nguyễn phân tranh, nước Việt Nam phân đôi thành Đàng Trong và Đàng Ngoài, thì Cochinchine được dùng để chỉ Đàng Trong, còn Tonkin chỉ Đàng Ngoài. Về sau Cochinchine mới được dùng để chỉ Nam Kỳ, khi đó Annam chỉ Trung Kỳ.
Năm 1859, Pháp đánh chiếm thành Gia Định, mở đầu cuộc xâm lược đất Việt Nam.
Năm 1862, ngày 13 tháng 4, triều đình Huế cắt 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) nhượng cho Pháp.
Năm 1867, Pháp đơn phương tuyên bố toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp. Từ đó, Nam Kỳ được hưởng quy chế thuộc địa, với chính quyền thực dân, đứng đầu là một Thống đốc người Pháp.
Hiệp ước Quý Mùi (25 tháng 8 năm 1883) nhập thêm tỉnh Bình Thuận vào Nam Kỳ (thuộc địa Pháp) coi như trừ số tiền bồi thường chiến phí còn lại mà triều đình Huế chưa trả hết, nhưng năm sau, Hiệp ước Giáp Thân (6 tháng 6 năm 1884) lại trả tỉnh Bình Thuận về cho Trung Kỳ.
Năm 1887, Nam Kỳ trở thành một vùng lãnh thổ nằm trong Liên bang Đông Dương. Năm 1933, quần đảo Trường Sa sát nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Tháng 3 năm 1945 Thống sứ Nhật Nashimura đổi Nam Kỳ thành Nam Bộ.
Mãi đến năm 1945, thời Đế quốc Việt Nam với chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố sáp nhập Nam Kỳ lại thành một bộ phận của nước Việt Nam độc lập. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ, hay Lâm ủy Nam Bộ, do chính quyền mới lập ra, đã tiếp quản vùng đất này.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, chưa đầy một tháng sau khi độc lập, Pháp đã nổ súng gây chiến ở Sài Gòn rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ. Pháp đã lập ra thể chế Nam Kỳ quốc hòng tách khu vực này ra khỏi Việt Nam.
Không đánh bại được Việt Minh, Pháp phải dùng "giải pháp Bảo Đại", công nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam.
Cuối cùng ngày 22 tháng 5 năm 1949, Quốc hội Pháp chính thức bỏ phiếu thông qua việc trả Nam Bộ cho Việt Nam. Nam Bộ trở thành lãnh thổ nằm trong Quốc gia Việt Nam.
II. Bộ máy cai trị của Pháp ở Nam Kỳ


1. Giải thích khái niệm “Trực trị”
“Trực trị” là hình thức cai trị thuộc địa của thực dân Pháp. Theo đó, bộ máy hành chính do thực dân Pháp trực tiếp điều hành, không cần duy trì hệ thống chính quyền của người bản xứ: Thực dân Pháp đặt chế độ trực trị ở Nam Kỳ trong khi thực hiện chế độ bảo hộ cùng với việc duy trì chính quyền tay sai Nam triều ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
2. Bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ
Bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ được chia làm hai giai đoạn: Trước ngày thiết lập chế độ Toàn Quyền Đông Dương (17 – 10 – 1887); và Từ sau ngày thiết lập chế độ Toàn quyền Đông Dương. Qua hai giai đoạn đó, bộ máy cai trị của Pháp ngày càng được hoàn thiện từ Trung ương tới các cấp: Khu, Tiểu khu (tỉnh), Thành phố, Tổng, xã.
2.1. Tổ chức cai trị từ cấp trung ương đến cấp Tiểu khu của thực dân Pháp ở Việt Nam trước ngày thiết lập chế độ Toàn quyền Đông Dương (17 – 10 – 1887).
Sau khi chiếm được bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) ngày 1 – 9 – 1858 Rigôn Đờ Giơnui-y lúc đó là thiếu tướng tổng chỉ huy lực lượng hải quân Pháp trên vùng biển Đông, là Phó Thủy sư Đô Đốc, kiêm giữ chức Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp tại Việt Nam – đã để lại một lực lượng đóng chiếm Sơn Trà, đặt dưới sự chỉ huy của Đại tá hải quân Toayông. Ngày 2 – 2 – 1859, y kéo đại quân theo đường biển trở vào Sài Gòn. Đơ Giơnui-y cùng với những tên kế lục hắn đã thay nhau giữ chức Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh xâm lược “Nam Kỳ Lục tỉnh” của Việt Nam. Từ đầu năm 1859 đến giữa năm 1867, sáu tỉnh Nam Kỳ lần lượt bị thực dân Pháp thôn tính.
Nhưng không phải đợi đến khi chiếm được toàn bộ Lục tỉnh thực dân Pháp mới tổ chức bộ máy cai trị của chúng. Mà, ngay từ khi đã chiếm được ba tỉnh miền Đông là Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, và buộc triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước đầu tiên ngày 5 – 6 – 1862, thực dân Pháp đã bước đầu tổ chức bộ máy cai trị của chúng tại những nơi đã chiếm được. Chúng đặt ba tỉnh miền Đông vào phạm trù “thuộc địa” của chúng và cho trực thuộc Bộ Hải quân và thuộc địa. Đứng đầu “xứ thuộc địa” mới này là một viên chức Pháp mang chức danh Toàn quyền, chịu trách nhiệm cả về dân sự lẫn quân sự. Ngày 25 – 6 – 1862, Bôna – kẻ đã cùng với triều đình Huế ký Hiệp ước 5 – 6 – 1862 – được triều đình Pháp thăng làm phó Đô Đốc và bổ nhiệm giữ chức vụ Toàn quyền trực tiếp nắm quyền thống trị tối cao ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, theo tinh thần Hiệp ước 5 – 6 – 1862. Đây cũng là ngày mở đầu cho chế độ võ quan thực dân cai trị ở Nam Kỳ. Chế độ này kéo dài cho tới tháng 7 – 1879 thì văn quan sang thay thế cho võ quan, với viên Toàn quyền “ngạch văn” đầu tiên là Lơ Miarơ Đờ Vile. Trong sử sách thường gọi thời kỳ võ quan cai trị này là thời kỳ “Đô Đốc – Toàn quyền”, và tên chóp bu thực dân đứng đầu bộ máy cai trị đó thường được gọi là Thống Đốc.

Dinh Thống Đốc Nam Kỳ
Sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị Pháp chiếm đóng, thì phần lớn quan lại đều bỏ các tỉnh đó và rút về các tỉnh khác để cùng nhân dân tiếp tục kháng chiến chống giặc. Phong trào đó được gọi là phong trào “tị địa”. Do đó, thời Bôna làm Thống Đốc (từ 25 – 6 – 1862 đến 30 – 4 – 1863), Bôna đã phải sử dụng hàng ngũ chánh phó tổng, xã trưởng, phó lý để tổ chức bộ máy cai trị. Ngoài ra, Bôna chọn một số sĩ quan thực dân và phong cho này chức “Thanh tra công việc nội chính bản xứ”, thường gọi là Tham biện. Số thanh tra này được đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Thống Đốc, và phải qua một lớp huấn luyện, có thi cử hẳn hoi, về tiếng nói và các thể chế của Việt Nam. Thanh tra công việc nội chính bản xứ trực tiếp chỉ đạo các quan lại ngụy quyền Việt Nam xuất thân từ hàng ngũ chánh phó tổng, xã trưởng, phó lý như đã nói trên. Hình thức manh nha của bộ máy thống trị thực dân ở giai đoạn đầu tiên này, có thể thể hiện bằng sơ đồ dưới đây:
















Sau Bôna là Đờ La Grăngđie, kẻ đã hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh. Lúc đầu Đờ La Grăngđie giữ nguyên hệ thống tổ chức cai trị do Bôna thiết lập. Và để tăng số lượng Thanh tra lên, hắn đã thu hẹp địa bàn hoạt động của các viên Thanh tra trước đó lại. Nhưng, từ năm 1864 đến năm 1887, Đơ La Grăngđie và các tên kế tục hắn đã củng cố dần bộ máy cai trị của chúng ở toàn Nam Kỳ như sau:
* Ở cấp trung ương
Chúng rập khuôn theo cách tổ chức bộ máy hành chính ở Quần đảo Ăngtiơ và đảo Rêuyniông là những thuộc địa “cũ” của chúng. Cụ thể là: Trên cùng có Thống Đốc, dưới Thống Đốc có ba chức danh cao cấp là: Tổng Biện lý chịu trách nhiệm về mặt pháp chế; Giám đốc Nội chính chịu trách nhiệm về những công việc có liên quan đến xứ thuộc địa; Tránh chủ trì chịu trách nhiệm về những công việc có liên quan đến những vấn đề tài chính và chính quốc. Bốn viên chức thực dân cao cấp này họp lại thành Hội đồng Tư mật, đặt dưới sự chủ trì của Thống Đốc. Dựa trên nguyên tắc đó, một số cấp cao lần lượt ra đời:
- Nha Nội chính: Được thành lập theo nghị định ngày 9 – 11 – 1864 của Thống Đốc Nam Kỳ Đờ La Grăngđie. Đây là một tổ chức chuyên nghiên cứu, theo dõi và giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến xứ thuộc địa. Nha Nội chính gồm có ba ban: Ban Tổng Thư ký chịu trách nhiệm liên hệ với các viên “Thanh tra công việc bản xứ”, và phụ trách công tác mật vụ, cảnh sát, giáo dục, tôn giáo; Ban Hành chính, phụ trách việc lập ngân sách, công chính, tài chính và nhân sự; Ban Canh nông – Thương mại – Kỹ nghệ phụ trách công việc có liên quan đến các ngành chuyên môn đó, đồng thời kiêm luôn việc xét sử người “bản xứ”. Đứng đầu Nha Nội chính là một viên Giám đốc. Pôlanh Vian – một trong những viên “Thanh tra công việc bản xứ” đầu tiên dưới thời Bôna (1862) – được cử làm Giám đốc đầu tiên của Nha Nội chính, và chính thức nhậm chức ngày 1 – 12 – 1864. Ngày 29 – 10 – 1887, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh bãi bỏ chức Giám đốc của Nha Nội chính và chuyển giao quyền hành của Giám đốc sang tay Thống Đốc Nam Kỳ.
- Hội đồng Tư mật: Được thành lập theo sắc lệnh ngày 21 – 1 – 1869. Thành phần của Hội đồng Tư mật gồm có: Chủ tịch Hội đồng là Thống Đốc Nam Kỳ; các ủy viên: Tổng Biện lý, Giám đốc Nha Nội chính, quan Chánh Chủ trì. Chức năng của Hội đồng là bàn bạc và quyết định mọi vấn đề có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của các viên chức cao cấp này, như về: pháp chế, nội trị, tài chính và các vấn đề liên quan đến chính quốc, v v…Nhân viên các cấp dưới quyền của ba ủy viên này không được trực tiếp liên hệ thẳng với Thống Đốc, mà phải thông qua viên chánh quan theo ngành dọc của mình.
Nhưng, sau khi bãi bỏ chức Chánh Chủ trì (nghị định ngày 3 – 10 – 1882), rồi thiết lập chế độ Toàn quyền Đông Dương (sắc lệnh 17 – 10 – 1887), và bãi bỏ chức Giám đốc Nha Nội chính (sắc lệnh ngày 29 – 10 – 1887), thì Hội đồng Tư mật Nam Kỳ được cải tổ lại như sau: Chủ tịch Hội đồng vẫn là Thống Đốc Nam Kỳ; các ủy viên Hội đồng gồm: Tổng chỉ huy các lực lượng quân đội viễn chinh Pháp đóng tại Nam Kỳ; Tổng Biện lý; hai cố vấn người Pháp và hai cố vấn người Việt, do Thống Đốc giới thiệu và Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Chức năng của Hội đồng Tư mật do đó cũng được quy định lại: Góp ý kiến về việc lập các ngân sách và các khoản chi phí hành chính; góp ý kiến về vấn đề thuế khóa; quy định các khu vực hành chính, vv…, tức là thông qua những ý kiến đóng góp của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ và của Hội đồng Hàng tỉnh Nam Kỳ. Ngoài ra nó còn là nơi để thông qua, khi cần thiết những bản dự thảo nghị định của Thống Đốc Nam Kỳ. Khi mới thành lập, chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Tư mật Nam Kỳ là Thống Đốc Ôhiê, từ 5 – 4 – 1868 đến 10 – 12 – 1869.
* Ở cấp khu
Ngày 5 – 1- 1876 Thống Đốc Nam Kỳ Đuypere ra nghị định phân chia toàn bộ địa bàn Nam Kỳ thành bốn Khu vực hành chính lớn là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bát Xác. Mỗi Khu vực hành chính lớn đó lại được chia nhỏ thành nhiều Tiểu khu hành chính:
- Khu vực Sài Gòn gồm 5 Tiểu khu là: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, và Gia Định (ngoại vi Sài Gòn).
- Khu vực Mỹ Tho gồm 4 Tiểu khu là: Mỹ Tho, Gò Công, Tân An, Chợ Lớn.
- Khu vực Vĩnh Long gồm 4 Tiểu khu là: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc.
- Khu vực Bát Xác gồm 6 Tiểu khu là: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng.
Ngày 18 – 12 – 1882 Thống Đốc Nam Kỳ Lơ Miarơ Đờ Vile ra nghị định tách hai tổng của Sóc Trăng và ba tổng của Rạch Giá để thành lập thêm một Tiểu khu nữa là Bạc Liêu và cho trực thuộc khu vực Bát Xác.
Theo tinh thần của sắc lệng ngày 10 – 2 – 1873 của Thống Đốc Pháp thì mỗi Khu vực hành chính lớn đó phải do ba viên chức cùng phối hợp điều hành. Viên chức hạng nhất phụ trách tư pháp và trực thuộc viên Tổng Biện lý. Viên chức hạnh nhì phụ trách hành chính và trực thuộc Giám đốc Nội chính. Viên chức hạng ba phụ trách thuế khóa và trực thuộc viên Chánh Chủ trì. Viên chức hạng ba phải là những hạng viên ddã tốt nghiệp Trường Tập sự do thực dân Pháp mở tại Sài Gòn từ năm 1873 và giao cho Trương Vĩnh Ký điều hành. Trường này sau đổi thành Trường Thông ngôn. Luyrô – một trong số “Thanh tra công việc bản xứ” đầu tiên ở Nam Kỳ dưới thời Bôna – là một người sáng lập ra cái “lò đào tạo quan lại cai trị thực dân” này, và là người đã soạn Giáo trình về tổ chức cai trị hành chính của người Việt Nam để đưa vào giảng dậy ở trường này từ năm 1874. Học viên ra trường tối thiểu phải làm việc 2 năm ở hạng ba, rồi sau đó mới được dự kỳ thi chuyển lên hạng nhì. Sau hai năm ở hạng nhì mới được dự thi chuyển lên hạnh nhất. Một số viên chức hạng nhất sẽ được lựa chọn cho giữ chức “Thanh tra công việc bản xứ” và được làm việc tại Sài Gòn. Đến khi bãi bỏ chức Chánh Chủ trì (từ 3 – 10 – 1882) và chức Giám đốc Nội chính (từ 29 – 10 – 1887) thì các viên chức hạng nhì và hạng ba đều trực thuộc Thống Đốc Nam Kỳ. Thực dân Pháp cho rằng đây là một khuynh hướng “tiến bộ”, khuynh hướng muốn chính quy hóa tổ chức tư pháp theo như “chính quốc”, tức là phân chia ranh giới giữa hai chức danh hành chính và tư pháp, không tập chung hai chức năng đó vào tay một người. Thực ra, nền hành chính của Việt Nam lúc bấy giờ đã có khuynh hướng này rồi, và đã được thể hiện thông qua các chức danh: Tổng đốc (hoặc Tuần phủ) phụ trách chung; Án sát phụ trách tư pháp; Bố chánh phụ trách thuế khóa – trên một đơn vị hành chính cấp tỉnh loại lớn.
* Ở cấp Tiểu khu
Mỗi Tiểu khu (từ 1 – 1 – 1900 đổi gọi là Tỉnh) có thể được chia thành một số đơn vị gọi là “Trung tâm hành chính”. Đứng đầu mỗi Tiểu khu là một viên quan cai trị người Pháp. Đứng đầu mỗi Trung tâm hành chính là một viên chức người Việt. Trung tâm hành chính loại lớn do chức Đốc Phủ sứ nắm; loại vừa do một chức Tri phủ nắm; loại nhỏ do một chức Tri huyện nắm. Điều cần chú ý là Nam Kỳ lúc đó không chia thành cấp phủ và cấp huyện. Do đó cấp Tri phủ, Tri huyện ở đây chỉ là chức vị tương đương với chức Tri phủ, Tri huyện thời phong kiến, còn chức Đốc phủ sứ tương đương với chức Tuần phủ thời trước. Song, cũng có những Trung tâm hành chính do một viên chức người Pháp nắm giữ. Nhưng, dù là người Pháp hay người Việt, tất cả các viên chức đứng đầu các Trung tâm hành chính đó đều trực thuộc viên quan cai trị người Pháp đứng đầu cấp Tiểu khu.
* Ở cấp thành phố
Thời kỳ này, tại Nam Kỳ, thực dân Pháp đã thành lập hai thành phố ở các cấp bậc khác nhau, nhưng về mặt tổ chức hành chính, chúng đều có những nét “đại đồng, tiểu dị”.
Ngày 8 – 1 – 1877, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh chính thức thành lập thành phố Sài Gòn. Thành phố Sài Gòn được chúng xếp vào loại “Thành phố lớn”, hay là “Thành phố cấp I”, và do đó phải được thành lập bằng sắc lệnh. Đứng đầu thành phố Sài Gòn là một viên Đốc lý và có thể có thêm hai viên Phó Đốc lý phụ tá. Đốc lý phải được lựa chọn thông qua bầu cử. Đốc lý có mọi quyền hành như viên quan cai trị đứng đầu Tiểu khu (sau gọi là Quan cai trị chủ tỉnh). Ngoài ra Đốc lý còn có quyền ra nghị định, gọi là “Nghị định Thành phố”, về những vấn đề có liên quan đến thành phố mình cai quản. Phụ tá cho Đốc lý còn có Hội đồng Thành phố. Ủy viên của Hội đồng Thành phố cũng phải được lựa chọn thông qua bầu cử. Đốc lý là Chủ tịch Hội đồng Thành phố. Hội đồng Thành phố có ba chức năng rõ rệt: Bàn bạc, lấy biểu quyết rồi ra quyết định đối với những vấn đề thuộc riêng thành phố, song những quyết định đó chỉ được thực hiện sau khi đã được Thống đốc Nam Kỳ duyệt thông qua (và khi có chế độ Toàn quyền Đông Dương thì những quyết định quan trọng phải được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y); Góp ý kiến về những vấn đề mà cấp trên yêu cầu; Đề đạt mọi nguyện vọng có liên quan đến lợi ích của thành phố lên cấp trên, song tyệt đối không được đề cập đến vấn đề chính trị hoặc những vấn đề có liên quan đến công việc cai trị chung. Thống đốc Nam Kỳ có quyền giải tán Hội đồng thành phố. Đây là tổ chức cai trị thành phố cấp I đầu tiên của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ngày 20 – 10 – 1879, Thống đốc Nam Kỳ Lơ Miarơ Đờ Vile ra nghị định thành lập Thành phố Chơh Lớn. Thành phố này được chúng xếp vào “Thành phố cấp II” và do đó chỉ được thành lập bằng nghị định. Đứng đầu thành phố cấp II đầu tiên này cũng là một viên Đốc lý, quyền hành cũng như quyền hành của Đốc lý thành phố cấp I Sài Gòn kể trên. Nhưng, tổ chức phụ tá cho Đốc lý thành phố cấp II chỉ được gọi là Ủy ban thành phố. Chủ tịch của Ủy ban thành phố là Đốc lý; các thành viên của nó phần lớn do Thống đốc lựa chọn và chỉ định, và số còn lại mới phải thông qua bầu cử. Chức năng của nó cũng như chức năng của Hội đồng thành phố cấp I. Khi cần thiết Thống đốc Nam Kỳ có thể ra nghị định giải tán Ủy ban thành phố.
Ngoài hệ thống cai trị các cấp kể trên, cũng cần phải kể đến hai tổ chức khác nữa do thực dân Pháp lập ra, và rất có quan hệ với bộ máy thống trị của chúng ở Nam Kỳ. Đó là Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ và Hội đồng Tiểu khu.
- Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ: Được thành lập theo sắc lệnh ngày 8 – 2 – 1880 của Tổng thống Pháp. Ủy viên của Hội đồng gồm vừa người Pháp vừa người Việt. Nhưng viên chức đang tại chức không được tham dự vào Hội đồng. Ủy viên Hội đồng được lựa chọn thông qua bầu cử. Ủy viên người Pháp bầu riêng. Ủy viên người Việt bầu riêng, và do các kỳ hào của từng khu vực hành chính lựa chọn bầu ra. Chức năng của Hội đồng là tư vấn cho chính quyền. Hội đồng có thể bàn mọi vấn đề như vaề thếu má, thu – chi của các ngân sách, phân chia khu vực hành chính…tức là những vấn đề gì có liên quan đến quyền lợi kinh tế và tài chính của cả người Pháp lẫn người Việt ở Nam Kỳ. Tất nhiên Hội đồng phải ưu tiên cho những quyền lợi kinh tế và tài chính của những người có chân trong Hội đồng. Tuyệt đối Hội đồng không được đề cập tới các vấn đề chính trị.
Bên cạnh Hội đồng Thuộc địa còn có Ủy ban Thường trực Hội đồng thuộc địa được thành lập theo sắc lệnh ngày 3 – 11 – 1910 của Tổng thống Pháp. Số Ủy viên của Ủy ban này có từ 3 đến 5 người, trong đó chỉ có 1 ủy viên người Việt. Chủ tịch Ủy ban thường trực phải là người Pháp và là người cao tuổi nhất. Ủy ban thường trực Hội đồng thuộc địa có trách nhiệm họp bàn và giải quyết những vấn đề đã được toàn thể Hội đồng thuộc địa ra quyết định sau khóa họp thường niên của nó.
- Hội đồng Tiểu khu: Được thành lập theo nghị định ngày 15 – 5 – 1882 của Thống Đốc Nam Kỳ (từ 1 – 1 – 1900 được đổi gọi là Hội đồng hàng tỉnh). Ủy viên Hội đồng Tiểu khu gồm đại biểu kỳ hào hiện dịch ở cấp tổng. Mỗi tổng bầu một đại biểu vào Hội đồng. Ai không phải là kỳ hào hiện dịch hàng tổng mà muốn vào Hội đồng thì phải đạt đủ những tiêu chuẩn sau: tuổi từ 30 trở lên, chưa bao giờ can án, đã có hai năm làm “việc làng” hoặc “việc nước”, hiện tại không phải là viên chức được hưởng lương ở bất kỳ một loại ngan sách nào. Ngoài ra tất cả các viên chức Đốc Phủ sứ, Tri phủ, Tri huyện thuộc Tiểu khu nào thì mặc nhiên đều là những ủy viên của Hội đồng Tiểu khu đó. Chủ tịch Hội đồng là viên quan cai trị đứng đầu Tiểu khu (sau là quan cai trị chủ tỉnh). Hội đồng có chức năng tư vấn cho chính quyền.


















Hệ thống tổ chức chính quyền của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trong giai đoạn 1861 - 1887


THỐNG ĐỐC
NAM KỲ

1 phụ trách 1 phụ trách 1 phụ trách
Tư Pháp Hành Chính Thuế Khóa
Cho mỗi khu vực hánh chính lớn







Có thế đơn giản hóa sơ đồ đó như sau





Kỳ












Địa phương







2.2. Tổ chức cai trị từ Trung ương đến cấp Tỉnh, Thành phố của thực dân Pháp ở Nam Kỳ từ sau ngày thiết lập chế độ Toàn quyền Đông Dương (17 – 10 – 1887)
* Cấp trung ương
Đứng đầu bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ là viên Thống đốc người Pháp. Thống đốc Nam Kỳ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương, và bình đẳng với Thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ.
Thống đốc là kẻ thay mặt cho Toàn quyền Đông Dương để trực tiếp nắm quyền cai trị Nam Kỳ và chịu trách nhiệm trước Toàn quyền Đông Dương về mọi mặt chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, dân sự, văn hóa, giáo dục vv…của địa bàn Nam Kỳ. Thống đốc có quyền lập quy, quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Nam Kỳ. Thông qua mạng lưới các quan cai trị thực dân đầu tỉnh Nam Kỳ, Thống đốc nắm mọi hoạt động từ cấp tỉnh trở xuống. Đối với bộ máy thống trị toàn Đông Dương, Thống đốc Nam Kỳ là ủy viên của Hội đồng tối cao Đông Dương, tức Hội đồng Chính phủ Đông Dương. Thống đốc Nam Kỳ cũng có những tổ chức phụ tá, cố vấn cao cấp để giúp Thống đốc thực hiện những chức năng và quyền lực kể trên: Hội đồng Tư mật, Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ (giống giai đoạn trước). Ngoài ra còn có một số tổ chức phụ tá như:
- Phòng thương mại Nam Kỳ, thành lập 30 – 9 – 1868
- Phòng Canh Nông Nam Kỳ, thành lập 30 – 4 – 1897
- Hội đồng Học chánh Nam Kỳ, thành lập 18 – 9 – 1923
- Ủy ban Khai thác thuộc địa Nam Kỳ, thành lập 28 – 12 – 1937 v v….
Một cơ quan vừa có tính chất chỉ đạo trực tiếp, vừa có tính chất tổng hợp cấp cao về mọi mặt hoạt động của chính quyền thực dân ở Nam Kỳ và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc Nam Kỳ là “Tòa Thống đốc Nam Kỳ” (thành lập năm 1868 gọi là“Soái Phủ Nam Kỳ”).
Tòa Thống đốc Nam Kỳ nhìn chung được chia thành 2 bộ phận lớn:
- Bộ phận cố định phụ trách ba khối công việc lớn:
+ Nhân sự (cả người Việt lẫn người Âu): bổ dụng, thăng giáng, khen thưởng, kỷ luật.
+ Công việc chính trị và bản xứ: báo cáo chính trị định kỳ: theo dõi tình hính chính trị của người bản xứ; phụ trách việc xuất bản sách báo bằng các thứ tiếng, phụ trách việc lập hội của người bản xứ…
+ Công việc thuần túy hành chính sự nghiệp như: công văn đi – đến, và theo dõi công việc của Ban thư ký Hội đồng Tư mật.
- Bộ phận lưu động phụ trách ba khối công việc lớn:
+ Những hoạt động cụ thể của người Pháp; theo dõi công việc của Hội đồng thuộc địa; Phòng thương mại, Phòng Canh nông; các thành phố; việc thành lập các công ty kinh doanh…
+ Những hoạt động cụ thể của người Việt; theo dõi các công việc của Hội đồng hàng tỉnh; theo dói việc quản trị cấp xã, phụ trách việc tuyển bắt lính…
+ Theo dõi các loại ngân sách.
Tổng hợp mọi hoạt động của bộ phận cố định và bộ phận lưu động là Ban Thư ký Tòa Thống đốc Nam Kỳ (thành lập 1887), do một viên Tổng Thư ký điều hành và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc Nam Kỳ.
* Cấp tỉnh, thành phố
Toàn Nam Kỳ được chia thành 20 tỉnh (kể từ ngày 1 – 1 – 1900); 2 thành phố lớn: Thành phố cấp I Sài Gòn (thành lập 8 – 1 – 1877), Thành phố cấp II Chợ Lớn (thành lập 20 – 10 – 1879) và một số thành phố cấp III, như: Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá (thành lập 18 – 12 – 1928), Long Xuyên (thành lập 31 – 1 – 1935), Mỹ Tho (thành lập 16 – 12 – 1938)…
Đứng đầu tỉnh là một viên quan cai trị người Pháp. Tỉnh nào lớn hoặc trọng yếu có thêm một viên phó. Phụ tá cho viên chức này có: Sở Tham biện và Hội đồng hàng tỉnh.
Đứng đầu thành phố cấp I và cấp II có Đốc Lý và Phó Đốc Lý. Phụ tá cho viên chức này có Tòa Đốc Lý.
Loại thành phố cấp III sẽ do quan chủ tỉnh người Pháp kiêm nhiệm.
Để nắm cấp tỉnh cho thật chặt, thực dân Pháp đã cho thiết lập trên địa bàn tỉnh một số Trung tâm hành chính hoặc một số Sở Đại lý (cuối 1919 đầu 1920 có 64 Trung tâm hành chính và Sở Đại lý trên toàn Nam Kỳ), đứng đầu là Đốc Phủ xứ, hoặc Tri phủ, hay Tri huyện người Việt.
2.3. Tổ chức bộ máy cai trị ở Tổng, Xã của thực dân Pháp
Sau khi chiếm được Nam Kỳ, những người thực dân thống trị đã nhanh chóng xây dựng thiết chế quản lý nông thôn ở Nam Kỳ cùng với việc xây dựng bộ máy thống trị trên toàn cõi Đông Dương. Song vẫn không đơn giản như thực dân tư bản Pháp mong muốn: Phong trào kháng chiến chống xâm lược bùng nổ liên tục; khởi nghĩa võ trang, hình thức “tỵ địa” tạo sự hoang vắng ở những vùng đất thực dân chiếm đóng: hầu hết các quan lại cũ, viên chức, chức dịch, nho sĩ đều lẩn chánh hay lánh mặt, sổ sách, giấy tờ thất lạc, ruộng đất bỏ hoang, làng xã, phố thị trộm cướp hoanhh hành. Trước tình trạng ấy, trong buổi đầu chiếm đóng thực dân Pháp đã bổ nhiệm các sĩ quan quân đội trực tiếp nắm chính quyền áp dụng hình thức cai trị trực tiếp của quân đội viễn chinh tại Nam Kỳ. Song hình thức cai trị này không mang lại hiệu quả vì số quân nhân này không có khả năng giải quyết những công việc xã hội – hành chính hàng ngày.
Để tạo cho một hậu phương “vững chắc” nhằm thực hiện việc cai trị có hiệu quả, thực dân Pháp đã tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ để nắm lại tầng lớp quan lại cũ ở Nam Kỳ, nhất là ở cấp phủ, huyện, xã, thôn vì các quan lại, hào lý này rất cần thiết cho công cuộc cai trị, bình định và khai thác xứ thuộc địa Nam Kỳ của thực dân Pháp. Tầng lớp này giúp chính quyền thực dân cai trị chặt chẽ xã hội làng xã mà lại tránh được sự tiếp xúc trực tiếp không cần thiết giữa chính quyền thực dân và dân chúng.
Toàn quyền Đông Dương Paul Daumer đã có nhận xét như một sự tổng kết thực tiễn lịch sử cai trị của chính sách thực dân của Pháp ở Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng: “Duy trì chọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ hỹ mà chúng ta đã thấy, đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì mỗi làng xã sẽ là một nước cộng hòa nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương. Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỷ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của nó, những cá nhân của chính quyền cấp trên có thể không cần biết tới, điều đó rất thuận lợi cho công việc của chúng ta”.
* Trước khi thiết lập chế độ Toàn quyền Đông Dương
- Ở cấp tổng: Mỗi Tiểu khu được chia thành nhiều Tổng. Đứng đầu mỗi Tổng là Chánh tổng, Phó tổng người Việt. Ở Nam Kỳ, Chánh, Phó tổng thực sự được xếp trong ngạch nhân viên hành chính, có hưởng lương và có xếp hạng. Chánh tổng gồm ba hạng. Phó tổng gồm hai hạng. Phải ở hạng thấp một thời gian (từ hai năm trở lên), họ mới được xét chuyển lên hạng sát trên. Trong thời kỳ này, Chánh, Phó tổng do các viên Thanh tra chỉ định.
- Ở cấp xã: Thời kỳ này thực dân Pháp chưa trực tiếp can thiệp vào tổ chức hành chính cấp xã. Mỗi Tổng được chia thành nhiều Xã. Xã trưởng và Phó lý là những người thay mặt xã dân làm trung gian giao tiếp giữa cấp xã với tỏ chức hành chính cấp trên.
* Sau khi thiết lập chế độ Toàn Quyền Đông Dương
Tỉnh chia thành tổng. Tổng do Chánh tổng và Phó tổng cai quản. Từ năm 1915, kỳ thi tuyển Chánh, Phó tổng tổ chức tập trung tại Sài Gòn, đề do Thống đốc Nam Kỳ ra. Từ năm 1918, Chánh, Phó tổng lại do bầu cử, có những quy định rất chặt chẽ với ứng cử viên và đặc biệt với cử tri, luật bầu cử…
=> Nhìn chung dù ở thời kỳ nào, thực dân Pháp cũng vì lợi ích của mình mà khai thác tối đa thiết chế chế độ dân chủ làng xã ở Nam Kỳ, biến nó thành cơ chế thực dân dưới lớp vỏ một cơ chế, một phương thức quản lý nông thôn truyền thống ở Nam Kỳ.
Hầu hết các chức sắc ở nông thôn Nam Kỳ dưới chính sách thực dân đều thuộc giai cấp địa chủ phong kiến, cấu kết với thực dân Pháp, làm tay sai bóc lột, đàn áp nhân dân.
Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ chính quyền thực dân đã quan tâm sớm đến việc tổ chức hệ thống cơ quan địa chính. “Việc đo đạc, phân định ranh giới và xác lập quyền sở hữu ruộng đất theo kiểu phương Tây ở Nam Kỳ đã làm cho tình hình và cơ cấu sở hữu ruộng đất ở đây có những biến đổi quan trọng. Bộ phận sở hữu lớn về ruộng đất của một nhóm địa chủ tay sai bản sứ và các thực dân người Pháp hình thành và ngày càng chiếm ưu thế”
Với chính sách ruộng đất và khai thác nông nghiệp ở nông thôn Nam Kỳ của chính quyền thực dân Pháp đã biến nông thôn Nam Kỳ thành vùng sản xuất nông nghiệp quảng canh, độc canh với lúa gạo là hàng hóa chính phục vụ cho xuất khẩu của thực dân Pháp lớn nhất Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Chính sách thực dân của Pháp được thể hiện qua hai cuộc khai thác thuộc địa Việt Nam đã dẫn đến những biến chuyển quan trọng trong cơ cấu xã hội Việt Nam, đặc biệt là sự phân hóa xã hội sâu sắc, mạnh mẽ ở nông thôn, nông dân bị bần cùng hóa, bị phá sản, ruộng đất của nông dân ngày càng bị bọn địa chủ lớn nhỏ Pháp – Việt ở Nam Kỳ thâu tóm. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân tư bản Pháp càng được đẩy mạnh bao nhiêu thì quá trình bần cùng hóa và phá sản của nông dân ở nông thôn Nam Kỳ càng diễn ra nhanh chóng bấy nhiêu. Thực dân Pháp tiến hành bần cùng hóa nông dân bằng mọi thủ đoạn: cướp đoạt ruộng đất, sưu cao, thuế nặng, áp bức “có tính cưỡng chế siêu kinh tế”.
Thiết chế quản lý làng xã – nông thôn Nam Kỳ không còn là thiết chế của một làng tiểu nông như trước. Nông dân tự do bị mất đất đã trở thành tá điền lĩnh canh ruộng đất cảu địa chủ, người tá điền đứng ngoài sự bảo hộ pháp luật của pháp luật thực dân. Họ không thể trông chờ vào sự giúp đỡ của làng xã qua việc được cấp khẩu phần công điền mà liên tiếp là sự mất mát, bần cùng. Giai tầng ở nông thôn Nam Kỳ đã phân hóa sâu sắc: nông dân tiểu sở hữu đã biến thành tá điền không còn gắn với cộng đồng làng xã vì công điền công thổ đã bị thực dân, địa chủ chiếm đoạt. Tầng lớp địa chủ đã thâu tóm hết ruộng đất của nông dân trở thành những trung địa chủ, đại địa chủ.
Ở nông thôn Nam Kỳ cứ 10 người dân thì 8 người không có ruộng đất. Số ruộng đất khai phá bao đời của nông dân nay bị thực dân, địa chủ bao chiếm gần hết. Để quản lý nguồn nhân lực ở nông thôn trước mắt là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp với mức độ ruộng đất tập trunh ngày càng lớn và dự trữ lao động để phát triển những ngành nghề kinh tế khác đã và đang xuất hiện ở Nam Kỳ trong khuôn khổ của nền kinh tế tư bản ở thuộc địa, chính quyền thực dân đã thưch hiện việc làm hộ tịch, khai sinh, báo tử bắt đầu thực hiện từ năm 1883 do Hội đồng hương chính chủ trì với hai người chuyên trách là chánh lục bộ và phó lục bộ và có sự kiểm soát của chính quyền thực dân.
Để hợp thức hóa một bước nữa việc chiếm đoạt ruộng đất của nông dân do thực dân và địa chủ thực hiện, chính quyền thực dân đã tiến hành ở nông thôn Nam Kỳ với một quy mô lớn việc lập địa bạ thực hiện việc đo đạc cắm mốc ruộng đất nhằm nắm được toàn bộ diện tích ruộng đất hiện có từ làng xã đến phủ, huyện, tỉnh nhằm phục vụ cho mục đích khai thác, bóc lột của thực dân Pháp.
Thiết chế quản lý nông thôn Nam Kỳ trước đây trở thành lực cản đối với sự khai thác, bóc lột của thực dân Pháp, nên sau khi tiến hành một loạt những biện pháp về quản lý hộ tịch, quản lý việc sinh tử, cưới hỏi, thiết lập địa bạ, thực dân Pháp đã can thiệp sâu hơn nữa vào thiết chế nông thôn Nam Kỳ, tấn công vào tính chất tự trị của thiết chế quản lý nông thôn ở Nam Kỳ, từng bước can thiệp sâu hơn vào nội bộ nông thôn ở Nam Kỳ, nhằm biến nông thôn Nam Kỳ với tổ chức cộng đồng làng xã hội thành một đơn vị hành chính thuần túy là một đơn vị hành chính trong hệ thống hành chính đương thời dưới quyền lực cai trị của thực dân Pháp.
Kể từ đầu thế kỷ XX đến tháng 8 năm 1945, chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành 3 đợt cải tổ bộ máy làng xã ở nông thôn Nam Kỳ đương thời gọi là “cải lương hương chính”. Ở ba thời điểm bằng các nghị định của toàn quyền Đông Dương:
* Nghị định ban hành ngày 27 tháng 8 năm 1904. Đây là văn bản đầu tiên về việc thực dân Pháp trực tiếp can thiệp vào việc cai trị làng xã ở Nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung, có những nội dung chính như sau:
- “Việc quản trị mỗi xã nằm trong tay một tổ chức mang tên: Hội đồng kỳ mục.
- Tiêu chuẩn để được đứng trong hàng ngũ kỳ mục phải là “những nhà điền chủ hoặc những người giàu có sung túc nhất trong xã”. Tất cả các kỳ mục trong xã sẽ họp nhau lại và lựa chọn ra tối thiểu là 11 người để lập thành “Hội đồng đại kỳ mục”. Đẳng cấp của 11 đại kỳ mục này được xếp theo thứ tự như sau: Hương cả (chủ tịch Hội đồng), Hương chủ (phó chủ tịch Hội đồng) và các Ủy viên Hội đồng: Hương sư, Hương trưởng, Hương chánh, Hương giáo, Hương quản, Hương bộ (hay Thủ bộ), Hương thân, Xã trưởng hoặc Thôn trưởng, Hương hào…
- Danh sách toàn thể các kỳ mục trong xã phải luôn luôn để ở đình làng và phải sao nộp tại các văn phòng của quan cai trị chủ tỉnh.
- Mỗi thành viên trong Hội đồng kỳ mục sau một thời gian tối thiểu 2 năm làm việc mà thôi không muốn làm nữa đều được bảo lưu mãi mãi cái danh hiệu của cấp bậc mà mình vừa kinh qua nếu không mắc sai phạm gì trong quá trình làm việc.
- Bất kể kỳ mục nào, nếu như không tuân thủ theo phong tục tập quán của xã hoặc cưỡng lại lệnh của Hội đồng đại kỳ mục đều bị Hội đồng xử phạt từ một quan đến 20 quan tiền, số tiền này nhập vào công quỹ của xã. Trường hợp tái phạm nhiều lần, Hội đồng đại kỳ mục phải báo cáo lên quan chủ tỉnh và quan chủ tỉnh có quyền đình chỉ tạm thời, hoặc cách chức, hoặc loại ra khỏi danh sách kỳ mục của xã đối với bất kỳ kỳ mục nào kể cả thành viên của Hội đồng đại kỳ mục.
- Tuyệt đối cấm làng xã không được tự động cho thuê, cho mượn hoặc lĩnh canh, hoặc bán tài sản, ruộng đất của mình dù là dưới hình thức nào: bán đứt hay bán đợ. Muốn bán làng xã phải xin phép quan chủ tỉnh và trình bày rõ lý do, quan chủ tỉnh báo cáo lên Thống đốc. Chỉ khi được phép của Thống đốc thì làng xã mới được tổ chức bán (theo giá thuận mua vừa bán giữa đôi bên, hoặc theo cách bán đấu giá).
- làng xã nào muốn khởi tố việc gì, và khởi tố ở cấp nào, đều phải được sự đồng ý của quan chủ tỉnh sở tại. Trường hợp quan chủ tỉnh bác bỏ, làng xã có thể kháng cáo lên Thống đốc.
- Cá nhân nào muốn kiện làng xã việc gì, phải làm đơn trình bày trước với quan chủ tỉnh hữu quan. Quan chủ tỉnh sẽ chuyển đơn đó về cho Hội đồng đại kỳ mục của xã hữu quan. Hội đồng đại kỳ mục phải họp bàn và gửi kiến nghị trở lại quan chủ tỉnh. Quan chủ tỉnh sẽ xét và cho phép hay không cho phép Hội đồng đại kỳ mục được theo kiện, khởi tố lại. Trường hợp bị quan chủ tỉnh bác bỏ không cho theo kiện, Hội đồng đại kỳ mục sẽ giao trách nhiệm cho Xã trưởng kháng cáo lên Thống đốc”
Nghị định trên về “cải lương hương chính” của chính quyền thực dân Pháp như một đột phá khâu tấn công vào thiết chế quản lý nông thôn Nam Kỳ, một thiết chế mà trước đó thực dân Pháp đã khen ngợi, đã duy trì nhằm phục vụ cho công cuộc xâm lược, bình định của chúng ở Nam Kỳ nói riêng và cả nước Việt Nam nói chung. Song cuộc “cải lương hương chính” thực hiện được 23 năm nhưng hiệu quả mang lại không nhiều.


Kỷ luật hành chính


Quan hệ hành chính






Sơ đồ cấp xã ở Nam Kỳ, 27 – 8 - 1904
* Từ thực tiễn đó chính quyền thực dân Pháp đã chỉnh sửa lại và một nghị định mới về “cải lương hương chính” ở Nam Kỳ đã được ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1927.
“Bản nghị định gồm 32 điều khoản, chủ yếu tiếp tục sự can thiệp của chính quyền vào cơ cấu hoạt động hành chính cấp xã ở Nam Kỳ trong những hoàn cảnh lịch sử mới. So với văn bản năm 1904, văn bản lần này bổ sung thêm một số điểm liên quan đến thành phần được tuyển chọn vào hàng ngũ các “kỳ mục”, tăng cường những thành phần xã hội có quan hệ gắn bó với chế độ thuộc địa giữ những chức vụ cao trong Hội đồng đại kỳ mục, quy định các hình thức kỷ luật đối với các thành viên Hội đồng đại kỳ mục và quyền hạn của Công sứ chủ tỉnh được phép tuyên bố giải tán toàn bộ Hội đồng nếu như số đông thành viên mắc sai sót trầm trọng hoặc có thái độ chống đối. Văn bản này còn đặt thêm chức vụ Đại hương cả, là người đứng đầu Hội đồng đại kỳ mục”.


Kỷ luật hành chính



Quan hệ hành chính





Sơ đồ cấp xã ở Nam Kỳ, 30 – 10 - 1927
* Thiết chế quản lý nông thôn ở Nam Kỳ lại bị tác động bởi chính sách thực dân Pháp với việc chính quyền thực dân Pháp tiến hành cuộc “cải lương hương chính” lần thứ ba. Nghị định này được ban hành ngày 5 tháng 1 năm 1944.
“So với những lần “cải lương hương chính” trước (theo các nghị định 29 – 8 – 1904 và 30 – 10 – 1927), Nghị định này về căn bản không có khác biệt mà chủ yếu chỉ bổ sung một số vấn đề liên quan đến thành phần tuyển lựa vào Hội đồng kỳ mục. Ngoài những thành phần theo các tiêu chuẩn cũ, lần “cải lương” này bổ xung thêm “những thương nhân sung túc nhất trong xã, những người có học được bằng Cao đẳng tiểu học Pháp – Việt trở lên, những cựu binh sĩ và cựu lính “thủ bộ” tuy không cấp bậc, nhưng có các loại huân, huy chương nhưng phải biết đọc biết viết”. Việc tuyển lựa sẽ do một Hội đồng tuyển trạch và trong quá trình xét tuyển, viên Chủ tỉnh người Pháp sẽ là người có quyền quyết định tối hậu. Đây là cuộc “cải lương hương chính” lần thứ ba được thực hiện ở Nam Kỳ và cũng là lần cuối cùng thực hiện ở Việt Nam cho đến lúc chế độ thực dân sụp đổ (8 - 1945)”.
Dưới tác động của chính sách thực dân, thiết chế quản lý nông thôn ở Nam Kỳ không chỉ biến đổi bởi những cuộc “cải lương hương chính” mà còn bị tác động từ nhiều chính sách như: Duy trì chủ trương thực hiện việc giai cấp địa chủ và tay sai người Việt Nam vào việc cai trị làng xã ở Nam Kỳ, nhiều chính sách để thu hút, lôi kéo các tầng lớp có học, có phẩm hàm, tài sản vào bộ máy quản trị ở làng xã – thông qua con đường đó, chúng vừa khai thác, tận dụng được nguồn lực của lớp người này, vừa xây dựng và củng cố được chỗ dựa xã hội vững chắc cho chính quyền thuộc địa ở nông thôn…Chính quyền thực dân còn tìm cách lợi dụng và kết hợp với sức mạnh của các hình thức tổ chức phi chính thống, đặc biệt là vai trò của hương ước vào việc sắp xếp, tổ chức, quản lý nông thôn. Nhờ đó sức mạnh của chính quyền cấp trên được xác lập và củng cố ở làng xã. Sự tinh vi và khôn khéo của bọn thực dân còn được thể hiện ở chỗ chúng vừa cố tình tạo ra một môi trường và phạm vi hoạt động có vẻ tự do dân chủ ở làng xã, đồng thời vừa có những quy chế ràng buộc và chỉ đạo chặt chẽ bộ máy chính quyền cấp xã”.
Với chính sách thực dân của chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam trong đó có Nam Kỳ nói riêng, thực dân Pháp đã thành công trong việc can thiệp vào thiết chế làng xã ở Nam Kỳ qua việc viên chức hóa bộ máy quản lý ở nông thôn Nam Kỳ, kiểm soát được nhân sự, ruộng đất, tài chính thông qua tầng lớp đại địa chủ và các thành phần xã hội khác có gắn bó với chính quyền thực dân Pháp điều hành dưới sự chỉ huy của thực dân Pháp trong một mức độ quyền hành được giới hạn.
Dưới tác động của chính sách thực dân, thiết chế quản lý nông thôn ở Nam Kỳ đã đẩy nhanh quá trình tan vỡ của cộng đồng làng xã ở nông thôn Nam Kỳ và biến nó thành một đơn vị hành chính thuần túy, một mắt xích trong guồng máy thống trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ.
Trên cơ sở biến đổi của kinh tế và thiết chế quản lý ở nông thôn đã dẫn đến việc phân hóa các giai tầng xã hội ở nông thôn Nam Kỳ: Địa chủ, nông dân ngày càng phân hóa sâu sắc. Nông dân thì ngày càng nghèo đói do bị bóc lột nặng nề, địa chủ thì giàu lên nhanh chóng, nạn cho vay nặng lãi xuất hiện, tầng lớp thương nhân đã thâm nhập vào nông thôn Nam Kỳ, các nghề thủ công có điều kiện phát triển, tính chất khép kín của nông thôn ngày càng mai một, tính cởi mở được khai thông từ phương thức sản xuất tư bản qua chính quyền thực dân Pháp đã du nhập vào Nam Kỳ khi xứ sở này từng bước trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Thiết chế quản lý nông thôn ở Nam Kỳ vốn được hình thành và phát triển lâu đời bắt nguồn từ nền kinh tế tiểu nông chắc chắn sẽ không thể giữ nguyên mãi mãi, nó sẽ phải thay đổi trong những hoàn cảnh: sự cưỡng bức của kẻ xâm lược và thống trị và trong sự tự vận động trong sự mở rộng của kinh tế hàng hóa, trong sự lưu thông của thị trường.
Thiết chế quản lý ở nông thôn Nam Kỳ đã sớm bị ảnh hưởng bởi chính sách thực dân Pháp khi mà điều kiện tích cực, khách quan chưa xuất hiện mà do sự áp đặt, cưỡng bức bởi yêu cầu thiết lập ách thống trị phục vụ cho hành động xâm lược, thống trị của thực dân Pháp nên đã xuất hiện những hình thức đấu tranh để duy trì thiết chế truyền thống và phải giải quyết những hậu quả nặng nề do sự lũng đoạn của chính sách thực dân, của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ gây ra trong việc quản lý nông thôn ở Nam Kỳ mà cho đến hôm nay vẫn chưa khắc phục được một cách căn bản.

Sơ đồ các cấp hành chính
Chính quốc

Xứ Nam Kỳ thuộc địa
Khu vực hành chính
Tiểu khu hành chính, thành phố
Trung tâm hành chính

Tổng





III. Kết luận.
Từ khái niệm “Trực trị” và xem xét tổ chức bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trước năm 1945, ta có thể kết luận Nam Kỳ đã trở thành xứ trực trị của thực dân Pháp.
Từ tổ chức bộ máy chính quyền cấp kỳ cho tới chính quyền cấp địa phương đều nằm dưới sự quản lý của chính quyền thực dân. Sự quản lý đó ngày càng được xiết chặt hơn sau khi thiết lập chế độ Toàn quyền Đông Dương (1887).
Thực dân Pháp đã lập ra các cơ quan quản lý, đặt thêm các chức vụ mới mà trước kia chưa từng có ở Nam Kỳ. Đồng thời thay đổi và thiết lập lại toàn bộ địa giới hành chính Nam Kỳ, chia Nam Kỳ ra thành các khu vực nhằm phục vụ cho việc dễ bề quản lý, bóc lột và cai trị.
Và không chỉ quản lý ở các cấp hành chính cao, mà thực dân Pháp còn vươn bàn tay của mình tới tận chính quyền cấp địa phương làng xã, thọc sâu vào cơ chế quản lý nông thôn Nam Kỳ, mà trước đây chưa một chính quyền phong kiến nào có thể can thiệp sâu.
Một loạt các nghị định được ban hành với các cuộc cải lương hương chính của mình, thực dân Pháp đã thành công trong việc can thiệp vào thiết chế làng xã ở Nam Kỳ qua việc viên chức hóa bộ máy quản lý ở nông thôn Nam Kỳ, kiểm soát được nhân sự, ruộng đất, tài chính.
Như vậy, từ cấp trung ương tới cấp địa phương, từ cấp kỳ tới cấp làng xã của Nam Kỳ đều đã nằm trong tay của thực dân Pháp. Nam Kỳ bị khai thác, bóc lột, và cai trị dưới hình thức trực trị.
Chữ ký của phangxehana




 

CHỨNG MINH NAM KỲ LÀ XỨ TRỰC TRỊ CUẢ PHÁP

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: TRI THỨC PHỔ THÔNG :: Lịch sử-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất