CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Tư sản dân quyền
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeSun Oct 17, 2010 5:25 pm

Khánh Trang
Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!

ĐIỀU HÀNH VIÊN

Khánh Trang

ĐIỀU HÀNH VIÊN

https://www.facebook.com/khanhtrangpi
Họ & tên Họ & tên : Trang
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Phó Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ - Trưởng ban Điều hành Diễn đàn
Huy chương thành tích Huy chương thành tích : Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 36 Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 6 Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 40Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 43
Ngày tham gia Ngày tham gia : 20/02/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 743
Đến từ Đến từ : Đăk Lăk
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!
Điểm thành tích Điểm thành tích : 1281
Được cám ơn Được cám ơn : 208

Bài gửiTiêu đề: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

I. Các ách đô hộ phương Bắc - các cuộc khởi nghĩa

1. Nhà Triệu (207-111 tr.CN)

Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà (207-137 tr.CN) đem đất Âu Lạc sáp nhập vào quận Nam Hải của mình, lập nên một quốc gia tự trị với quốc hiệu là Nam Việt. Triệu Đà tự xưng là Triệu Vũ Vương và không chịu thần phục Trung Hoa. Nước Trung Hoa, sau một thời gian nội loạn, đã được ổn định trở lại dưới Triều Tây Hán. Vua Hán muốn Nam Việt trở thành chư hầu, sai người sang phong vương cho Triệu Đà. Trước sức mạnh của thiên triều, Triệu Đà đành chấp nhận vị trí tiểu quốc. Nhưng sau khi Hán Cao Tổ chết, lợi dụng tình hình tranh chấp quyền hành trong nội bộ Hán Triều, Triệu Đà lấy cớ việc Hán triều cấm không cho người Hán giao thương với Nam Việt, cho quân đội sang quấy nhiễu quận Trường Sa (sau này là Hồ Nam) và đồng thời tự xưng là Hoàng Đế (183 tr.CN). Hán triều cho quân sang đánh Nam Việt nhưng thất bại, phải rút quân về nước (181 tr.CN)

Khi Trung Hoa đã ổn định, Hán triều lại cho người sang chiêu dụ Triệu Đà từ bỏ đế hiệu mà thần phục nhà Hán như cũ. Triệu Đà chấp nhận và hai bên lại thông hiếu.

Theo một số sách sử, Triệu Đà làm vua hơn 70 năm, thọ đến 121 tuổi (137 tr.CN)

Cháu đích tôn của Triệu Đà lên nối ngôi, lấy hiệu là Triệu Văn Vương, làm vua được 12 năm (137-125 tr.CN). Trong thời gian ấy, Nam Việt yếu đi. Dưới áp lực của nhà Hán, Triệu Văn Vương phải cho con trai là Anh Tề sang làm con tin tại Hán Triều. Anh Tề ở đấy mười năm. Khi Triệu Văn Vương mất, Anh Tề mới được về nước để nối ngôi.

Anh Tề làm vua 12 năm (137-125 tr.CN) thì mất, người con thứ (mẹ là người Hán) được lên nối ngôi. Đó là Triệu Ai Vương. Triệu Ai Vương và mẹ có ý định sang chầu vua Hán thì bị quan đại thần là Lữ Gia giết chết. Người anh (mẹ là người Nam Việt) lên ngôi nhưng không chống được sự xâm lăng của quân Hán, bị quân Hán giết chết. Nam Việt bị nhập vào Nhà Hán (11 tr.CN)

2. Nhà Tây Hán (còn gọi là Tiền Hán, 206 tr.CN-Thế kỷ thứ 18)

Nhà Tây Hán lấy được Nam Việt vào năm 111 tr.CN, đổi tên Nam Việt thành Giao Chỉ Bộ rồi chia ra quận và huyện để cai trị. Có tất cả chín quận là:

Nam Hải (Quảng Đông)
Uất Lâm (Quảng Tây)
Thương Ngô (Quảng Tây)
Hợp Phố (Quảng Đông)
Giao Chỉ (phần đất Bắc bộ cho đến Ninh Bình-thủ phủ là huyện Liên Lâu)
Cửu Chân (từ Ninh Bình đến Hoành Sơn)
Nhật Nam (từ Hoành Sơn đến núi Đại Lãnh tức là đèo Cả)
Châu Nhai (đèo Hải Nam)
Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam)
Đứng đầu mỗi quận là chức Thái Thú và một Đô úy coi việc quân sự, ngoài ra còn có quan Thứ sử để giám sát các quận.

Tại các huyện, nhà Tây Hán vẫn cho các lạc tướng trị dân và có quyền thế tập như cũ.

Dân Việt phải nộp cho chính quyền đô hộ những của quý, vật lạ như đồi mồi, ngọc trai, sừng tê, ngà voi, lông chim trả, các thứ thuế muối, thuế sắt.

3. Nhà Đông Hán (còn gọi là Hậu Hán, 25-220)- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43)

Trước nhà Đông Hán còn có nhà Tân, nhưng triều đại này rất ngắn ngủi, không để lại dấu ấn gì rõ rệt trên đất Việt. Nhà Đông Hán lên thay thế nhà Tần vào năm 25 sau Công Nguyên. Chính dưới triều đại này đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43)

Hai Bà là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh (vùng Ba Vì - Tam Đảo). Tương truyền rằng bà Man Thiện, mẹ của Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn dòng dõi Hùng Vương. Hai bà mồ côi cha sớm, được mẹ nuôi nấng và dạy cho nghề trồng dâu nuôi tằm cùng rèn luyện võ nghệ. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên.

Lúc bấy giờ nhà Đông Hán đang cai trị hà khắc nước Việt, viên Thái thú Tô Định là người bạo ngược, tham lam "thấy tiền giương mắt lên". Hai bà cùng Thi Sách chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa, nhưng Thi Sách bị Tô Định giết chết.

Tháng ba năm 40 sau Công Nguyên, Trưng Trắc và Trưng Nhị tiếp tục sự nghiệp, dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, trên vùng đất Mê Linh với lời thề:

"Một xin rửa sạch thù nhà
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này"

(Thiên Nam ngữ lục)

Cuộc khởi nghĩa Mê Linh lập tức được sự hưởng ứng ở khắp các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Các cuộc khởi nghĩa địa phương được quy tụ về đây thống nhất lại thành một phong trào rộng lớn từ miền xuôi đến miền núi. Đặc biệt trong hàng ngũ nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ như Lê Chân, Thánh Thiên, Bát Nàn, Nàng Tía, ả Tắc, ả Di... Từ Mê Linh, nghĩa quân đánh chiếm lại thành Cổ Loa rồi ồ ạt tiến đánh thành Luy Lâu. Hoảng sợ trước khí thế của nghĩa quân, quan lại của nhà Đông Hán bỏ chạy. Tô Định bỏ cả ấn kiếm, cắt tóc, cạo râu trốn chạy về nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai Bà Trưng đã thâu phục 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó. Cuộc khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Hai bà lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh.

"Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta"
(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Năm 42, nhà Hán cử Phục Ba tướng quân Mã Viện đem hai vạn quân cùng hai ngàn thuyền, xe sang xâm lược nước Việt. Hai bà đem quân đến đánh quân Hán ở Lãng Bạc nhưng vì lực lượng yếu hơn nên bị thua. Hai bà phải lui về Cấm Khê (Vĩnh Yên, Vĩnh Phú) và cầm cự gần một năm. Bị bại trận, hai bà chạy về Hát Môn gieo mình xuống sông Hát tự vận (43). Hàng năm dân gian lấy ngày 6.2 Âm lịch làm ngày kỷ niệm hai Bà Trưng.

Sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng, Mã Viện đem đất Giao Chỉ về lệ thuộc lại nhà Đông Hán như cũ đóng phủ trị trại Long Biên. Để đàn áp tinh thần quật khởi của dân Việt, Mã Viện cho dựng một cột đồng ở chỗ phân địa giới. Trên cột đồng có khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt", có nghĩa là nếu cây trụ đồng này đổ thì dân Giao Chỉ bị diệt vong. Có thuyết cho rằng, do dân Việt cứ mỗi lần đi ngang qua, đều bỏ vào chân cột một hòn đá, vì thế trụ đồng bị lấp dần đi. Về sau không còn biết vị trí của chiếc trụ đồng nữa là vì vậy.

Các chức Thái thú, Thứ sử vẫn được duy trì nhưng chế độ lạc tướng cha truyền con nối bị bãi bỏ. Chính sách cai trị của người Hán ngày càng hà khắc, quan cai trị tham nhũng tàn ác. Dân Việt cực khổ điêu đứng, lên rừng kiếm châu báu, xuống bể mò ngọc trai để cung phụng cho chính quyền đô hộ. Dân quận Hợp Phố chịu nặng nề cảnh mò ngọc nên bỏ xứ đi xiêu tán rất nhiều.

Nhà Hán chủ trương đồng hóa dân Việt. Họ cho di dân Hán sang ở lẫn với dân Việt, lấy vợ Việt. Tuy thế người Việt vẫn giữ được bản sắc dân tộc mình. Đến đầu thế kỷ thứ ba, Giao Chỉ có Thái thú Sĩ Nhiếp, là người tôn trọng Nho học, giúp dân giữ lễ nghĩa và giữ gìn được an ninh xã hội. Vào năm 203, Sĩ Nhiếp dâng sớ lên vua nhà Đông Hán, xin đổi Giao Chỉ thành Giao Châu. Từ đấy có tên Giao Châu.

4. Nhà Đông Ngô (thời Tam Quốc, 229-280)- Cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (248)

Nhà Đông Hán mất ngôi thì nước Trung Hoa lâm vào tình trạng phân liệt của thời Tam Quốc, gồm có ba nước là Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Châu thuộc về Đông Ngô. Chính dưới chế độ này đã xảy ra cuộc khởi nghĩa binh của Triệu Trinh Nương (248).

Hai thế kỷ sau cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa của Triệu Trinh Nương (còn gọi là Triệu Thị Trinh) cùng người anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi thuộc quận Cửu Chân.

Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và có chí khí, Bà vẫn thường nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta". Bà theo anh khởi nghĩa lúc mới 19 tuổi, lập cứ tại vùng Thanh Hóa ngày nay.

Năm 248, nghĩa quân tấn công quân Ngô, Bà Triệu đem quân ra trận cưỡi voi, mặc áo giáp vàng tự xưng là Nhụy Kiều tướng quân. Nghĩa quân đánh phá nhiều thành quách làm đối phương phải khiếp sợ. Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân đàn áp. Đánh nhau trong sáu tháng, nghĩa quân mai một dần. Bà Triệu đem tàn quân đến núi Tùng (Thanh Hóa) và tự sát ở đấy.

Vào năm 264, nhà Ngô chia đất Giao Châu ra, lấy Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt trị sở ở Long Biên. Đất Giao Châu này là lãnh thổ của Việt Nam về sau.

5. Nhà Tấn (265-460) và Nam Triều (Tống, Tề, Lương, 420-588)

Nhà Tấn là một triều đại không được ổn định vì nhiều thân vương cát cứ tại các địa phương đánh nhau liên tục. Quan lại sang cai trị Giao Châu phần nhiều là người tham lam, cộng vào đó là sự kiểm soát lỏng lẻo của chính quyền trung ương, tạo nên cảnh tranh giành quyền lực không ngớt. Phía Nam lại có nước Lâm ấp thường sang quấy nhiễu. Đất Giao Châu loạn lạc không dứt.

Sau thời nhà Tấn, Trung Hoa lại phân liệt ra thành Bắc triều và Nam triều. Giao Châu phụ thuộc vào Nam triều trải qua các nhà Tống, Tề, Lương. Tình hình Giao Châu dưới các triều vẫn giống như dưới thời nhà Tấn. Cuộc khởi nghĩa Lý Bôn xảy ra dưới đời nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân, cắt đứt ách đô hộ phương Bắc trong thời gian hơn nửa thế kỷ (545-602).

6. Lý Nam Đế - Nước Vạn Xuân (544-602)

Vào nửa đầu thế kỷ thứ 6, đất Giao Châu nằm dưới sự thống trị của nhà Lương. Thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư, nổi tiếng tham lam, tàn ác. Có được một cây dâu cao một thước, người dân cũng phải đóng thuế. Thậm chí có người nghèo khổ, phải bán vợ, đợ con, nhưng cũng phải đóng thuế.

Lý Bí, một người quê ở huyện Thái Bình (không phải thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) đứng lên chiêu tập dân chúng. Ông đã từng giữ một chức quan nhỏ với nhà Lương, cố gắng giúp đỡ những ai bị hà hiếp, nhưng không làm được việc gì đáng kể, bèn bỏ quan trở về quê nhà và cùng người anh là Lý Thiên Bảo mưu khởi nghĩa. Ông được nhiều người theo. Trong đó có Thủ lĩnh đất Chu Diên (vùng Đan Phượng-Từ Liêm, thuộc Hà Tây và ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục (?-571) đem lực lượng của mình theo về. Ngoài ra còn có những nhân vật nổi tiếng khác cũng kéo đến giúp sức như Tinh Thiều, Phạm Tu, Lý Phục Man..

Mùa xuân năm 542, Lý Bí tiến quân vay thành Long Biên. Quân Lương đầu hàng còn Tiêu Tư thì trốn thoát về được Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa thành công. Vua nhà Lương vội đưa quân sang nhưng bị đánh bại.

Năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, lấy niên hiệu là Thiên Đức, Lý Nam Đế đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch, dựng điện Vạn Xuân để vua quan có nơi hội họp. Nhà vua còn cho dựng chùa Khai Quốc (sau này là chùa Trấn Quốc ở Hồ Tây, Hà Nội).

Năm 545, nhà Lương sai một tướng tài là Trần Bá Tiên đem quân sang xâm lược Vạn Xuân. Lý Nam Đế cùng các tướng sĩ chống không được, phải về vùng rừng núi Vĩnh Phú cố thủ lấy hồ Điền Triệt (xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú) làm nơi thao luyện quân lính. Chẳng bao lâu, lực lượng trở nên mạnh mẽ. Trần Bá Tiên nhiều lần đem quân đánh phá nhưng không được. Về sau, nhân một cơn lũ dữ dội tràn vào vùng căn cứ, Trần Bá Tiên theo dòng lũ, thúc quân tiến đánh, Lý Nam Đế phải rút về động Khuất Lão (còn gọi là động Khuất Liêu, là tên một khu đồi hiện nằm bên hữu ngạn sông Hồng, ở giữa hai xã Văn Lang và Cổ Tuyết thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phú). Sau nhiều năm lao lực, Lý Nam Đế bị bệnh mù mắt, giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục và mất vào năm 548.

Triệu Quang Phục đánh nhau mấy lần với Trần Bá Tiên nhưng đều thất bại, bèn lấy đầm Dạ Trạch (Hải Hưng) làm căn cứ. Đầm Dạ Trạch nằm ven sông Hồng, chu vi không biết là bao nhiêu dặm. Giữa đầm có một bãi đất cứng. Ngoài ra, bốn bề là bùn lầy, người ngựa không thể nào đi được, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc, lấy sào đẩy trên cỏ, nước mà di chuyển. Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi đất nổi và áp dụng kế "trì cửu", tức là đánh lâu dài làm tiêu hao lực lượng của địch quân. Căn cứ địa được giữ hoàn toàn bí mật, ban ngày im hơi, không nấu nướng, ban đêm đột kích ra đánh phá trại địch. Vì thế dân chúng tôn xưng ông là Dạ Trạch Vương.

Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục xưng là Triệu Việt Vương, Năm 550, nhân lúc nhà Lương suy yếu, Triệu Quang Phục kéo quân về chiếm thành Long Biên, làm chủ được đất nước.

Đến năm 557, Lý Phật Tử, một người cùng họ với Lý Nam Đế, đem quân đánh và đòi chia hai đất nước cùng Triệu Việt Vương. Để tránh cảnh chiến tranh, Triệu Việt Vương đành chấp thuận, nhưng bất ngờ bị Lý Phật Tử đánh úp, chạy đến cửa biển Đại Nha (Hà Nam Ninh) gieo mình xuống biển tự tử. Năm 571; Lý Phật Tử chiếm cả nước.

Sau khi lấy được thành Long Biên, Lý Phật Tử xưng đế hiệu là Lý Nam Đế. Để phân biệt Lý Phật Tử với Lý Bí, sử sách gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế (571-602). Trong khi ấy nhà Tùy (589-618) đã thống nhất và ổn định được nước Trung Hoa. Vua nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân sang đánh Vạn Xuân. Lưu Phương không cần dụng binh, cho người đi chiêu hàng được Lý Phật Tử. Từ đấy Vạn Xuân trở thành Giao Châu của nhà Tùy.

7. Nhà Đường (618-907)-Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (722) và của Phùng Hưng (trong khoảng 766-779)

Nhà Tùy làm chủ nước Trung Hoa chỉ được 28 năm thì bị nhà Đường lật đổ vào năm 618. Nhà Đường cai trị Giao Châu cay nghiệt nhất trong các chính quyền đô hộ. Những sản vật quý giá của Giao Châu bị vơ vét đưa về phương Bắc. Trong số đó, có quả vải là lại trái cây mà giới quyền quý nhà Đường rất ưa chuộng. Về mặt chính trị, nhà Đường sửa lại toàn bộ chế độ hành chính, phân chia lại châu quận, đổi Giao Châu thành An Nam đô hộ phủ, chia ra làm 12 châu, 59 huyện.

Dưới đời nhà Đường, dân Việt liên tiếp nổi dậy, hai cuộc khởi nghĩa có tính chất rộng lớn nhất là của Mai Thúc Loan và của Phùng Hưng.

Mai Thúc Loan quê ở làng muối Mai Phụ, thuộc huyện Thiên Lộc, Châu Hoan (Hà Tĩnh ngày nay). Thuở nhỏ, nhà nghèo, Mai Thúc Loan theo mẹ sống ở làng Ngọc Trừng, huyện Nam Đàn. Ông là người mạnh khỏe, có nước da đen bóng.

Năm 722, nhân dịp dân phu gánh vải sang cống cho nhà Đường, bị hành hạ, nhiều người bỏ xác dọc đường, lòng oán thán dâng cao, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu gánh quả vải nổi lên giết quan quân áp tải và cùng ông phất cờ khởi nghĩa. Mai Thúc Loan chọn vùng Sa Nam (Nghệ An), một vùng hiểm trở có sông Lam rộng và núi Đụn cheo leo làm căn cứ. Tại đây ông cho xây thành Vạn An, gồm nhiều đồn lũy, dài cả ngàn mét. Ông xưng đế, lấy thành Vạn An làm Kinh đô. Ông thường được gọi là Mai Hắc Đế (vua Đen họ Mai) vì nước da đen của ông.

Để lập thành một mặt trận liên hoàn chống quân Đường, Mai Hắc Đế liên kết với các nước Champa, Chân Lạp và cả Malaysia. Sau khi quy tụ được nhiều lực lượng, Mai Hắc Đế cho quân tiến ra đồng bằng Bắc bộ, vây đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Quan đô hộ là Quang Sở Khách chống không lại, bỏ thành chạy trốn. Mai Hắc Đế giành lại độc lập cho đất nước. Nhưng được ít lâu, nhà Đường sai Dương Tu Húc đem 10 vạn quân, theo lộ trình xưa của Mã Viện, chớp nhoáng tiến vào đất Việt thình lình tấn công bản doanh của Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế chống không lại, phải vào rừng cố thủ. Ông bị bệnh và chết ở đấy. Quân Đường, sau khi thắng trận, đem dân Việt ra giết vô số. Thây người không kịp chôn, chất cao thành gò.

Tuy thắng được Mai Hắc Đế và vẫn còn ham thích quả vải của đất Việt, nhưng nhà Đường không còn dám bắt dân Việt cống quả vải nữa. Để nhớ ơn của Mai Hắc Đế, dân gian có câu tuyển tụng:

"Cống vải từ nay Đường phải dứt
Dân nước đời đời hưởng phước chung".

Hơn 40 năm sau cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế là cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng.

Phùng Hưng vốn gia đình giàu có ở xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây), thuộc dòng dõi Quan Lang. Theo truyền thuyết, Phùng Hưng có hai người em cùng sinh ba là Phùng Hải và Phùng Dĩnh. Cả ba anh em đều có sức khỏe hơn người, tay không bắt được hổ.

Vào khoảng năm 767, anh em họ Phùng phất cờ khởi nghĩa. Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo còn Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng. Họ đặt đại bản doanh tại Đường Lâm. Hào kiệt theo về rất đông. Họ làm chủ cả miền trung du và miền núi Bắc Bộ. Vài năm sau, thấy lực lượng đã mạnh, Phùng Hưng cho quân tiến vây thành Tống Bình. Theo kế của Đỗ Anh Hàn, cũng người xã Đường Lâm, Phùng Hưng cho người đi khắp nơi, phao lên là sắp lấy được thành Tống Bình, đồng thời tiến hành vây thành rất ngặt. Cứ đang đêm, quân khởi nghĩa nổi lửa, đánh chiêng, đánh trống, reo hò ầm ĩ để uy hiếp tinh thần đối phương. Quan Đô hộ là Cao Chính Bình lo sợ đổ bệnh rồi chết. Phùng Hưng chiếm được thành, đem lại độc lập cho đất nước.

Phùng Hưng cai trị đất nước trong bảy năm thì mất. Dân chúng vô cùng thương tiếc, tôn ông là danh hiệu là Bố Cái Đại Vương. "Bố" có nghĩa là cha, "Cái" có nghĩa là mẹ, ví công ơn của Phùng Hưng đối với Tổ quốc như công ơn của cha mẹ đối với con cái. Dân chúng lập đền thờ ông ở ngay xã Đường Lâm. Không những được thờ ở quê nhà, Bố Cái Đại Vương còn được thờ làng Triều Khúc. ở đây ông được thờ làm Thành hoàng tại ngôi đình Lớn. Hàng năm đều có lễ hội tưởng nhớ đến chiến công của ông.

Sau khi Phùng Hưng mất, nội bộ thân thuộc của ông không giữ được sự đoàn kết. Dân chúng muốn tôn Phùng Hải lên nối nghiệp, nhưng có một tướng là Bồ Phá Lạc, là người vũ dũng và có nhiều thuộc hạ, không đồng ý, muốn lập con của Phùng Hưng là Phùng An lên. Bồ Phá Lạc đem quân chống lại Phùng Hải. Phùng Hải tránh giao tranh, lui về vùng rừng núi, rồi sau đó đi đâu, chẳng ai rõ, Phùng An lên nối nghiệp. Chẳng bao lâu, nhà Đường sai Triệu Xương đem quân sang, vừa đánh vừa chiêu dụ. Thấy thế không chống được, Phùng An phải đầu hàng. Xứ Giao Châu lại lệ thuộc nhà Đường lần nữa.

Từ đó cho đến khi Khúc Thừa Dụ (?-907) tự xưng là Tiết Độ sứ, tình trạng của dân Việt vô cùng đen tối, nhất là vào giữa thế kỷ thứ 9. Quân Nam Chiếu lợi dụng sự bất lực của nhà Đường sang quấy nhiễu cướp bóc đất Giao Châu. Nam Chiếu là một quốc gia tự trị nằm phía Tây Bắc Giao Châu. Vào thế kỷ thứ 9, Nam Chiếu trở nên cường thịnh và bắt đầu từ đấy đi xâm lấn các nước lân cận. Giao Châu bị quân Nam Chiếu sang đánh phá từ năm 846 đến 866 mới chấm dứt. Riêng hai năm 862 và 863, Nam Chiếu đánh đến phủ thành Giao Châu, giết chết hơn 15 vạn người dân Việt. Đến năm 865, nhà Đường sai một tướng tài là Cao Biền sang đánh dẹp. Hai bên đánh nhau suốt hai năm trời trên đất Giao Châu, Cao Biền mới diệt được quân Nam Chiếu.

Sau loạn Nam Chiếu, nhà Đường đổi tên An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải Quân (866), phong cho Cao Biền làm Tiết độ sứ. Chính Cao Biền là người đã cho xây thành Đại La ở bên bờ sông Tô Lịch.

Đến cuối đời nhà Đường, tình hình xáo trộn của Trung Hoa tạo thời cơ cho Khúc Thừa Dụ xây nền tự chủ (906), đưa đất nước thoát khỏi vòng nô lệ kéo dài cả ngàn năm.

II. Di sản văn hóa tiêu biểu

Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, đất nước nằm trong cảnh bị đô hộ nên không để lại công trình kiến trúc đồ sộ nào. Về phía nhà cầm quyền phương Bắc, đáng kể nhất là việc xây thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch. Về phía dân tộc Việt Nam, theo sử liệu, Mai Thúc Loan có xây thành Vạn An bên sông Lam làm kinh đô, nhưng hiện nay không còn dấu tích gì. Chỉ có chùa Trấn Quốc, tuy đã trải qua nhiều thay đổi nhưng dù sao cũng có nguồn gốc từ thời đất nước mang tên là Vạn Xuân.

Ngoài ra, có một điều thú vị là dấu vết của cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng được giữ gìn một cách chi tiết. Sự lưu giữ ấy không thông qua kiến trúc hay bằng các sử liệu chính thống mà qua một lễ hội vẫn được truyền tụng trong dân gian. Đó là lễ hội Triều Khúc.

Chùa Trấn Quốc

Sau khi đánh thắng quân Lương, lên ngôi vào năm 544, Lý Nam Đế cho xây một ngôi chùa bên bờ sông Hồng, đặt tên là chùa Khai Quốc (có nghĩa là mở nước). Trải qua nhiều đời, chùa vẫn tồn tại. Đến triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497), chùa được đổi tên là chùa An Quốc. Vào đời vua Lê Kính Tông (1599-1619), bãi đất chùa bị lở, dân chúng bèn dời chùa đưa vào đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây. Chùa được đổi tên một lần nữa dưới đời vua Lê Hy Tông (1675-1705) là Trấn Quốc (giữ nước). Tên gọi này được giữ cho đến nay.

Kết cấu chùa theo thứ tự từ ngoài vào là nhà Bái Đường, nhà Tam Bảo và phía sau là hai dãy hành lang thập điện và gác chuông. Trong chùa có nhiều tượng đẹp, đặc biệt bức tượng Thích Ca nhập Niết Bàn có giá trị nghệ thuật cao. Chùa có nhiều bia cổ, trong đó đáng chú ý là bia dựng vào năm 1639 do Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chinh soạn. Bia này ghi lại lịch sử xây dựng chùa.

Cảnh quan u tịch trước đây của chùa Trấn Quốc thích hợp cho sự tĩnh tâm, nhưng ngày nay nét lắng đọng ấy không còn nữa. Những kiến trúc mới, những sinh hoạt náo nhiệt không xa chùa bao nhiêu đã phá vỡ phần nào vẻ huyền diệu, thâm u của cửa thiền.

Lễ hội Triều Khúc

Triều Khúc trước năm 1945 là một xã thuộc tổng Thượng Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, sau này cùng thôn Yên Xá hợp thành xã Tân Triều. Tên nôm của hai thôn là Kẻ Đơ, ngoài ra Triều Khúc còn có một tên nôm khác là Đơ Thao. Đơ Thao là nơi có truyền thống dệt quai thao nổi tiếng. Nguyên liệu dệt là những sợi tơ phế phẩm, sần sùi, có nổi cục, không thể dùng để dệt lụa, được chuyển về dệt tại đây để làm đẹp cho các cô gái làng Triều Khúc.

Triều Khúc có hai ngôi đình, là đình Sắc, nơi lưu giữ sắc phong của Triều đình, và đình Lớn, nơi thờ Bố Cái Đại Vương làm Thành hoàng. Đình Lớn được xếp hạng bảo quản thuộc diện quản lý của thành phố Hà Nội.

Triều Khúc nhờ ở địa điểm nằm sát kinh thành, trở thành chứng nhân của nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử. Trong các sự kiện lớn lao ấy, Triều Khúc không bao giờ quên trận vây thành Tống Bình của Phùng Hưng. Hàng năm, dân chúng mở hội diễn lại chiến thắng ấy. Lễ hội Triều Khúc, với nét độc đáo, quyết rũ của riêng mình, đã lôi cuốn rất đông đảo người tham dự.

Lễ hội được tổ chức ngay sau Tết Âm lịch, từ ngày mồng 10 đến 12 tháng Giêng. Ngày mồng mười là ngày Phùng Hưng khởi binh vây thành, được chọn làm ngày chính hội với buổi lễ rước triều phục, long bào của Phùng Hưng từ đình Sắc về đình Lớn. Điểm độc đáo của buổi lễ rước là ở động tác di chuyển của hàng quân rước. Họ sắp thành hai hàng, đối mặt nhau và rập rình đi ngang chứ không đi thẳng bình thường. Chi tiết ấy tăng thêm vẻ kỳ bí cho lễ hội.

Trong khi ở đình trong tiến hành nghi lễ cúng bái, đèn nhang, hương khói nghi ngút trong không khí trang nghiêm thì ở đình ngoài lại rộn ràng với tiết mục múa "cô gái đánh bồng". Hai chàng trai giả gái với áo quần tha thước đủ màu, nhiều lớp, môi son má phấn, răng đen hạt huyền, mắt lúng liếng. Khăn mỏ quạ, trông xinh đẹp chẳng khác gì các cô thôn nữ. Họ nhí nha nhí nhảnh, vừa vỗ trống bồng đeo trước bụng, vừa nhún nhẩy quay cuồng, làm cho đám hội thêm phần linh động.

Sau nghi lễ là đến các trò chơi như múa lân, múa rồng, sới vật, đốt pháo thi, hát chèo. Sới vật của Triều Khúc thu hút nhiều chàng đô vật ở các vùng nổi tiếng như Bắc Ninh, Mai Động đến thi tài. Nghệ thuật múa rồng của dân Triều Khúc rất nổi tiếng với các tiết mục rồng dựng gây thán phục cho người xem. Những chàng trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đứng chồng lên vai nhau múa rồng theo tiếng trống bập bùng rất lâu mà không đổ. Nhờ vậy mà đội rồng Triều Khúc thường được các nơi khác mời về trình diễn. Sau hết là làn điệu chèo êm ả, trong vút, cuộn vào lòng người, khiến không ai muốn rời đám hội, dù đêm đã khuya, trăng đã mờ.

Ngày 12 là tan hội, được đánh dấu bằng trò múa cờ. Trò múa này kể lại sự tích Phùng Hưng tuyển quân bổ sung để vây thành Tống Bình. Giữa sân đình, một lá cờ đại phần phật lộng gió. Từng chàng trai bận quân phục theo kiểu cổ, tay cầm xà mâu, mã tấu, giáo mác, nườm nượp ra mắt Phùng Hưng. Rồi tiếng thanh la, tiếng trống đồng loạt vang lên. âý là lúc Phùng Hưng, theo kế của Đỗ Anh Hàn, phô trương lực lượng, uy hiếp tinh thần Cao Chính Bình, rồi, theo hiệu trống, các chàng trai ào ào chạy qua cổng đình, tỏa thành hai toán quân, chạy theo đường ruộng, làm thành một vòng tròn khép kín. Đó là lúc quân lính của Phùng Hưng vây thành với tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng tù và inh ỏi. Cuộc vây thành chấm dứt trong tiếng reo hò cổ vũ của người xem.

Trước khi tan hội, một bữa tiệc với đầy đủ rượu trầu, cổ bàn bày chật cả ba gian đình để thưởng cho những người chiến thắng và người dự lãm. Mọi người nâng chén, chúc tụng nhau và cùng hẹn gặp lại vào kỳ lễ hội năm sau. Chiến tích của Bố Cái Đại Vương, người con của Đường Lâm, sống mãi trong ký ức của dân tộc.

Chữ ký của Khánh Trang





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeWed Oct 20, 2010 7:21 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Một số bổ sung:
1. Các danh hiệu Triệu Vũ vương, Triệu Văn vương, Ai vương... là miếu hiệu của các vua Nam Hán, đặt sau khi chết, vì có lẽ k0 ai tự xưng là Ai vương (vua bi ai, buồn rầu)?

2. Cù thị mẹ Ai vương là người Hán có nhân tình làm quan trong triều nên ra sức ủng hộ việc sáp nhập Nam Hán vào trung nguyên

3. Lữ Gia khi chống lại quân Hán thua chạy đã sang và chết ở VN. Ở chùa Thầy trong hang Cắc cớ có bàn thờ LG và một bể xương truyền rằng của LG và quân Nam Hán chết ở đây

Còn có di tích vườn trúc. Sử TQ nói 'Mả Lã gia ở trong vườn trúc'

Dân ở đây kiêng từ 'lã'

Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeWed Oct 20, 2010 7:58 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Tây Hán do Hán cao tổ Lưu Bang lập nên kéo dài khoảng 200 năm đóng đô ở Tràng an
Vương Mãng cướp ngôi lập ra nhà Tân nhưng k0 tôn tại lâu
Lưu Tú, một quân phiệt có quan hệ với họ Lưu lập ra nhà Đông Hán (Hậu Hán) đóng đô ở Lạc dương hiệu là Quang Vũ đế

Bọn Tàu gọi dân Việt là Giao chỉ vì có 2 ngón chân cái thường giao nhau (toẽ ngang). Hiện tượng đó do di truyền hay do hoàn cảnh lao động thì còn chưa rõ

Chồng bà Trưng Trắc có tên Thi. Sử Tàu chép 'chu diên lạc tướng danh thi sách mê linh lạc tướng nữ tử danh trưng trắc' nghĩa là Lạc tướng Chu diên tên là Thi lấy con gái lạc tướng Mê linh
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeWed Oct 20, 2010 8:35 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Việc cống vải thời Đường chỉ là một truyền thuyết, dã sử sai lạc dựa trên câu chuyện Dương quý phi thích ăn vải và An Lộc Sơn cho ngựa trạm đưa vải về

VN nhất là vùng Nghệ An quê MTL k0 phải là nơi sản xuất vải ngon. Nhiều vùng ở TQ có những giống vải rất ngon. Vải thiều của VN du nhập từ TQ cuối tk19, lấy tên từ chữ Thiều Châu

Nếu MTL và dân phu có gánh vải đi cống thì đến nơi quả vải cũng thành vải khô rồi

Sách gk Sử hiện nay đã sửa từ 'gánh vải đi cống' thành 'gánh sản vât...'
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeSat Oct 23, 2010 3:27 pm

Atula
Ăn và ngủ.

Thành viên cấp 1

Atula

Thành viên cấp 1

Họ & tên Họ & tên : Nguyễn Ngọc Linh
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/08/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 31
Đến từ Đến từ : tpHCM
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Ăn và ngủ.
Điểm thành tích Điểm thành tích : 35
Được cám ơn Được cám ơn : 0

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thắc mắc phát!

1 là, thời kì này gọi là thời kì Bắc thuộc và chống Bắc thuộc! (chứ không phải "Thời Bắc thuộc" như chủ thread đưa)

2 là, thời gian từ 179 BC đến 905 chứ sao lại là 207 BC đến 906?
Chữ ký của Atula





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeSat Oct 23, 2010 9:08 pm

Khánh Trang
Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!

ĐIỀU HÀNH VIÊN

Khánh Trang

ĐIỀU HÀNH VIÊN

https://www.facebook.com/khanhtrangpi
Họ & tên Họ & tên : Trang
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Phó Chủ nhiệm CLB Sử học Trẻ - Trưởng ban Điều hành Diễn đàn
Huy chương thành tích Huy chương thành tích : Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 36 Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 6 Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 40Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) 43
Ngày tham gia Ngày tham gia : 20/02/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 743
Đến từ Đến từ : Đăk Lăk
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Cảm ơn lịch sử!!
Điểm thành tích Điểm thành tích : 1281
Được cám ơn Được cám ơn : 208

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Atula đã viết:
Thắc mắc phát!

1 là, thời kì này gọi là thời kì Bắc thuộc và chống Bắc thuộc! (chứ không phải "Thời Bắc thuộc" như chủ thread đưa)

2 là, thời gian từ 179 BC đến 905 chứ sao lại là 207 BC đến 906?
2. Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà thôn tính năm 208 TCN (hoặc 179 TCN).
1. mình nghĩ Bắc thuộc là đúng
Chữ ký của Khánh Trang





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeSat Oct 23, 2010 11:03 pm

Atula
Ăn và ngủ.

Thành viên cấp 1

Atula

Thành viên cấp 1

Họ & tên Họ & tên : Nguyễn Ngọc Linh
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/08/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 31
Đến từ Đến từ : tpHCM
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Ăn và ngủ.
Điểm thành tích Điểm thành tích : 35
Được cám ơn Được cám ơn : 0

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
2: cho cái nguồn?

1: bạn nghĩ vậy? ờ, nhưng chỉ là bạn nghĩ thôi. Còn lịch sử không nghĩ vậy, khoa học không nghĩ vậy bạn ạ! Bạn cho là vậy? ờ, thế bạn phủ nhận các cuộc đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa (với mục đích chống ách đô hộ Tàu) trong thời kì này, phỏng?
Chữ ký của Atula





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeMon Oct 25, 2010 7:18 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Gọi 'thời Bắc thuộc' là cách gọi tắt. Đúng ra trong thời kì này nhiều giai đoạn nước ta giành được độc lập tuy ngắn ngủi (Hai Bà Trưng 40-43, Lý Nam đế, Bố Cái Đại vương, Mai Hắc đế...) chưa kể các cuộc khởi nghĩa

Cũng như ta gọi 'thời Pháp thuộc' thì trong thời kì đó cũng có nhiều cuộc đấu tranh, khởi nghĩa... và về danh nghĩa Trung kỳ vẫn thuộc Nam triều, cũng như có giai đoạn '1 cổ 2 tròng'

Có thể gọi là 'thời kì Pháp thuộc và chống Pháp thuộc' chăng? vẫn còn thiếu 'Nhật thuộc'?

Tên gọi có ý nghĩa khái quát, VD như Hà Nội thì k0 đơn giản chỉ là ở trong sông
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeSat Oct 30, 2010 10:31 am

Phụng_Thiên
Gần bóng đèn, xa lọ mực

Thành viên cấp 3

Phụng_Thiên

Thành viên cấp 3

Họ & tên Họ & tên : Hoàng Thiên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 21/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Đến từ Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Gần bóng đèn, xa lọ mực
Điểm thành tích Điểm thành tích : 151
Được cám ơn Được cám ơn : 12

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Ừm cách gọi này là tắt thôi. Nói rõ ràng ra thì thời kì chống và bị bắc thuộc. Nhưng nghe chẳng quen mồm
Chữ ký của Phụng_Thiên





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeMon Nov 01, 2010 7:37 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Cách đặt tên cũng thể hiện quan điểm lắm đó. Theo ý m thì nên gọi là 'thời kì chống Bắc thuộc'

Nhân nói về cách đặt tên, tại sao cái đoạn truyện Kiều đặt tên là 'Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều' mà ko là ''Thuý Kiều từ biệt Thúc Sinh '. Trong đoạn đó chỉ thấy nàng Kiều nói sa sả từ đầu chí cuối còn chàng Thúc chỉ im ỉm. Cách đặt tên này cho thấy quan điểm trọng nam khinh nữ

Hay bây giờ những kẻ đánh bom và chết theo luôn vẫn có nhiều cách gọi tên: 'đánh bom cảm tử', đánh bom tự sát, đánh bom liều chết... Theo các bạn cách nào đúng?
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeMon Nov 01, 2010 2:19 pm

Phụng_Thiên
Gần bóng đèn, xa lọ mực

Thành viên cấp 3

Phụng_Thiên

Thành viên cấp 3

Họ & tên Họ & tên : Hoàng Thiên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 21/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Đến từ Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Gần bóng đèn, xa lọ mực
Điểm thành tích Điểm thành tích : 151
Được cám ơn Được cám ơn : 12

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thanhsamkhach đã viết:
Cách đặt tên cũng thể hiện quan điểm lắm đó. Theo ý m thì nên gọi là 'thời kì chống Bắc thuộc'

Nhân nói về cách đặt tên, tại sao cái đoạn truyện Kiều đặt tên là 'Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều' mà ko là ''Thuý Kiều từ biệt Thúc Sinh '. Trong đoạn đó chỉ thấy nàng Kiều nói sa sả từ đầu chí cuối còn chàng Thúc chỉ im ỉm. Cách đặt tên này cho thấy quan điểm trọng nam khinh nữ

Hay bây giờ những kẻ đánh bom và chết theo luôn vẫn có nhiều cách gọi tên: 'đánh bom cảm tử', đánh bom tự sát, đánh bom liều chết... Theo các bạn cách nào đúng?

Chống thì cũng chưa nói hết được í nghĩa thôi mình cứ để nguyên đi bạn ạ
Chữ ký của Phụng_Thiên





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeTue Nov 02, 2010 7:53 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Tuy ko nói được hết ý nghĩa nhưng nói được quan điểm, lập trường

Tỷ dụ gọi là 'boy friend', 'hot girl' thì cũng chưa nói được hết ý nghĩa nhưng lại rất nhiều ẩn ý
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeTue Nov 02, 2010 2:36 pm

Phụng_Thiên
Gần bóng đèn, xa lọ mực

Thành viên cấp 3

Phụng_Thiên

Thành viên cấp 3

Họ & tên Họ & tên : Hoàng Thiên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 21/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Đến từ Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Gần bóng đèn, xa lọ mực
Điểm thành tích Điểm thành tích : 151
Được cám ơn Được cám ơn : 12

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thanhsamkhach đã viết:
Tuy ko nói được hết ý nghĩa nhưng nói được quan điểm, lập trường

Tỷ dụ gọi là 'boy friend', 'hot girl' thì cũng chưa nói được hết ý nghĩa nhưng lại rất nhiều ẩn ý

:) đúng thế. Tôi thường mấy đứa đú bẩn là hot girl hay hot boy điều đó chứg tỏ tôi nhìn nhận rất đúng =)) ( rất xoáy )

Nhưng tôi nghĩ nên để nguyên trạng vậy đy bạn ạ !! Thời kì chống và bị đô hộ
Chữ ký của Phụng_Thiên





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeWed Nov 03, 2010 1:10 am

Atula
Ăn và ngủ.

Thành viên cấp 1

Atula

Thành viên cấp 1

Họ & tên Họ & tên : Nguyễn Ngọc Linh
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/08/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 31
Đến từ Đến từ : tpHCM
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Ăn và ngủ.
Điểm thành tích Điểm thành tích : 35
Được cám ơn Được cám ơn : 0

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Ôi ôi! Tóm lại, vẫn là "thời kì Bắc thuộc và chống Bắc thuộc" nhé! Trước mắt là nó đủ, thứ nữa là nó khoa học. :D

Còn cái thắc mắc về khoảng thời gian, hình như bạn chủ thớt vẫn nợ tớ! :P
Chữ ký của Atula





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeWed Nov 03, 2010 8:35 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Mạn phép KT trả lời giùm

Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm, từ 257 TCN đến 208 TCN

Các sử gia hiện đại căn cứ vào Sử ký Tư Mã Thiên là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại từ khoảng 208 TCN đến 179 TCN, tức là gần 30 năm

Nguồn gốc
Tới nay có các thuyết khác nhau về An Dương Vương nói chung và nguồn gốc của An Dương Vương nói riêng.

Người Âu Việt phía bắc Lạc Việt

Cùng tồn tại ở vùng Bắc Bộ vào thời kỳ Hồng Bàng, có các bộ tộc Âu Việt sống xen kẽ với người Lạc Việt và người Thái. Cuối thời kỳ Hồng Bàng, các bộ tộc Âu Việt lập ra nước Thục ở mạn đông bắc của Văn Lang (thuộc khu vực đông nam Quảng Tây ngày nay), nhưng vẫn thường xuyên giao lưu với Lạc Việt. Đến đời Thục Phán, đã chiếm hết đất đai của các Hùng Vương, thống nhất nó với lãnh thổ Âu Việt thành nước Âu Lạc (ghép tên Âu Việt và Lạc Việt). Thục Phán tự xưng là vua năm 257 TCN, hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa, huyện Đông Anh - Hà Nội).

Con cháu nước Thục ở Trung Hoa

Có thuyết cho rằng gia đình Thục Phán là hậu duệ của các vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc, chạy về phía Nam để tránh bạo loạn vào cuối thời Chiến Quốc và khi nhà Tần nổi lên. Thục Phán đã đến vùng lãnh thổ của người Âu Việt (甌越) (nay là đông nam Quảng Tây, tây nam Quảng Đông, Trung Quốc và đông bắc Việt Nam) gây dựng lực lượng quân sự tại đây.

Tuy nhiên, thuyết này bị nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ. Khoảng cách từ Tứ Xuyên tới miền Bắc Việt Nam là khoảng 3000 km*, và khoảng thời gian từ khi nước Thục bị Tần diệt (316 TCN) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Việt Nam (257 TCN) là gần 60 năm.

Sách "Ngược dòng lịch sử" của GS Trần Quốc Vượng cho rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có cơ hội khôi phục nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt của họ Hồng Bàng...

Nghi vấn
Mỗi giả thuyết nên trên đều có những chỗ đáng ngờ và chỗ đáng ngờ chung là: Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một vấn đề nghi vấn. Tựu trung, cả hai thuyết đều có chỗ đúng và có thể ghép lại thành một diễn biến xâu chuỗi: Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Sau vài lần chống Tần thất bại , con cháu chạy xuống phía đông nam và đóng ở phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt tiêu diệt thôn tính Lạc Việt. Trong trường hợp này, không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt.

Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương hay họ Thục.

Nhà nghiên cứu, tu sĩ Phật giáo Lê Mạnh Thát cho rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại Hùng vương thứ 18 lập nên nhà nước Âu Lạc chỉ là một phiên bản của chuyện Mahabharata từ Ấn Độ truyền sang. Và thành Cổ Loa chưa chắc đã là thành do An Dương Vương cho xây dựng nên.

Lịch sử và truyền thuyết
Lập quốc

Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: Vua Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng Vương muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đời cháu Thục Vương là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, Vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc

Chống Tần
Cùng thời kỳ này, bên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sát nhập 6 nước sau nhiều năm hỗn chiến thời Chiến Quốc. Ông tiếp tục tham vọng xâm chiếm Bách Việt, vùng đất đai của các bộ tộc người Việt ở phía nam Trung Quốc và bắc Việt Nam ngày nay. Đạo quân xâm lược nhà Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi vào lãnh thổ Âu Lạc, quân Tần gặp phải cuộc kháng chiến trường kì của người Việt do Thục Phán chỉ huy.

Theo cuốn Lịch sử Việt Nam (Viện sử học - 1991): Năm 218 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhất phải đào con kênh nối sông Lương (vùng An Hưng, Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, Đồ Thư thống lĩnh đã vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Thục Phán được các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, Nhân dân Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức,vì thiếu lương, thì Quân dân Việt, do Thục Phán chỉ huy, mới bắt đầu xuất trận. Đồ Thư đã phải bỏ mạng trong trận này. Mất chủ tướng, quân Tần hoang mang mở đường tháo chạy về nước. Sau gần 10 năm kháng chiến, nhân dân Âu Việt – Lạc Việt giành được độc lập. Thục Phán củng cố và xây dựng lại đất nước

Xây thành Cổ Loa

Sau chiến thắng trước quân Tần, An Dương Vương quyết định giao cho tướng Cao Lỗ xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự. Tục truyền rằng thành xây nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.

Di tích của thành Cổ Loa vẫn còn lưu lại cho đến nay, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía đông bắc. Đền thờ An Dương Vương nằm ở trung tâm di tích này. Các nghiên cứu khảo cổ học tại đây vẫn tiếp tục làm sáng tỏ các thời kỳ lịch sử mà thành đã trải qua.

Mắc kế thông gia và sụp đổ

Ít lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu Lạc. Nhờ vào chuẩn bị quân sự tốt, An Dương Vương đã chống cự được hiệu quả. Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.

Về năm mất của triều đại An Dương Vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần sách sử Việt Nam (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Việt sử Tiêu án) đều chép là An Dương Vương mất nước năm 208 TCN. Sách giáo khoa của Việt Nam căn cứ vào Sử Ký của Tư Mã Thiên ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ như vậy vì Sử Ký chép là Triệu Đà diệt nước Âu Lạc "Sau khi Lã Hậu chết", mà Lã Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước Âu Lạc mất khoảng năm 179 TCN. Truyền thuyết An Dương Vương, Nỏ Thần, và con trai Triệu Đà là Trọng Thuỷ ở rể nước Việt có nhiều chỗ không hợp với Sử Ký của Tư Mã Thiên, mặc dầu Sử Ký là nguồn tư liệu sớm nhất mà các nhà viết sử Việt Nam có được để tham khảo.

Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép dẫn theo sách Thái bình hoàn vũ ký, phần Nam Việt chí của Nhạc Sử nhà Tống: An Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương Vương có Cao Thông (Cao Lỗ) giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết chết quân [Nam] Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn. Triệu Đà biết rõ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con là Trọng Thủy sang làm tin, xin hòa hảo với nhau. Về sau, An Dương Vương đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương Vương có người con gái là Mị Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải lòng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mị Châu đòi xem nỏ thần, Mị Châu đem cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai người ruổi về báo tin cho Triệu Đà. Triệu Đà lại đem quân sang đánh úp. Khi quân Triệu kéo đến, An Dương Vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng rồi! Quân Thục chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục. Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.

Theo Wikipedia

Một số nghi vấn nữa.
-Vũ Ninh mà Triệu Đà lui về có phải bộ Vũ Ninh mà sử Tàu ghi 'có ng dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, lên làm vua hiệu là Hùng Vương' k0?
-Theo gs TQV Thục Phán có thể là người Tày (tổ tiên của Anvi?) trong tiếng Tày 'Tuk Pắn' có nghĩa là thủ lĩnh, tương tự như Khun (tiếng Thái), Cun (tiếng Mường) có thể là nguồn gốc của từ "Hùng vương"
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeWed Nov 03, 2010 9:48 am

Phụng_Thiên
Gần bóng đèn, xa lọ mực

Thành viên cấp 3

Phụng_Thiên

Thành viên cấp 3

Họ & tên Họ & tên : Hoàng Thiên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 21/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Đến từ Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Gần bóng đèn, xa lọ mực
Điểm thành tích Điểm thành tích : 151
Được cám ơn Được cám ơn : 12

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thanhsamkhach đã viết:
Mạn phép KT trả lời giùm

Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng thời gian ông làm vua kéo dài 50 năm, từ 257 TCN đến 208 TCN

Các sử gia hiện đại căn cứ vào Sử ký Tư Mã Thiên là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại từ khoảng 208 TCN đến 179 TCN, tức là gần 30 năm

Nguồn gốc
Tới nay có các thuyết khác nhau về An Dương Vương nói chung và nguồn gốc của An Dương Vương nói riêng.

Người Âu Việt phía bắc Lạc Việt

Cùng tồn tại ở vùng Bắc Bộ vào thời kỳ Hồng Bàng, có các bộ tộc Âu Việt sống xen kẽ với người Lạc Việt và người Thái. Cuối thời kỳ Hồng Bàng, các bộ tộc Âu Việt lập ra nước Thục ở mạn đông bắc của Văn Lang (thuộc khu vực đông nam Quảng Tây ngày nay), nhưng vẫn thường xuyên giao lưu với Lạc Việt. Đến đời Thục Phán, đã chiếm hết đất đai của các Hùng Vương, thống nhất nó với lãnh thổ Âu Việt thành nước Âu Lạc (ghép tên Âu Việt và Lạc Việt). Thục Phán tự xưng là vua năm 257 TCN, hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa, huyện Đông Anh - Hà Nội).

Con cháu nước Thục ở Trung Hoa

Có thuyết cho rằng gia đình Thục Phán là hậu duệ của các vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc, chạy về phía Nam để tránh bạo loạn vào cuối thời Chiến Quốc và khi nhà Tần nổi lên. Thục Phán đã đến vùng lãnh thổ của người Âu Việt (甌越) (nay là đông nam Quảng Tây, tây nam Quảng Đông, Trung Quốc và đông bắc Việt Nam) gây dựng lực lượng quân sự tại đây.

Tuy nhiên, thuyết này bị nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ. Khoảng cách từ Tứ Xuyên tới miền Bắc Việt Nam là khoảng 3000 km*, và khoảng thời gian từ khi nước Thục bị Tần diệt (316 TCN) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Việt Nam (257 TCN) là gần 60 năm.

Sách "Ngược dòng lịch sử" của GS Trần Quốc Vượng cho rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có cơ hội khôi phục nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt của họ Hồng Bàng...

Nghi vấn
Mỗi giả thuyết nên trên đều có những chỗ đáng ngờ và chỗ đáng ngờ chung là: Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một vấn đề nghi vấn. Tựu trung, cả hai thuyết đều có chỗ đúng và có thể ghép lại thành một diễn biến xâu chuỗi: Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Sau vài lần chống Tần thất bại , con cháu chạy xuống phía đông nam và đóng ở phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt tiêu diệt thôn tính Lạc Việt. Trong trường hợp này, không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt.

Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương hay họ Thục.

Nhà nghiên cứu, tu sĩ Phật giáo Lê Mạnh Thát cho rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại Hùng vương thứ 18 lập nên nhà nước Âu Lạc chỉ là một phiên bản của chuyện Mahabharata từ Ấn Độ truyền sang. Và thành Cổ Loa chưa chắc đã là thành do An Dương Vương cho xây dựng nên.

Lịch sử và truyền thuyết
Lập quốc

Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: Vua Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên gọi là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng Vương muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đời cháu Thục Vương là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, Vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc

Chống Tần
Cùng thời kỳ này, bên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sát nhập 6 nước sau nhiều năm hỗn chiến thời Chiến Quốc. Ông tiếp tục tham vọng xâm chiếm Bách Việt, vùng đất đai của các bộ tộc người Việt ở phía nam Trung Quốc và bắc Việt Nam ngày nay. Đạo quân xâm lược nhà Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi vào lãnh thổ Âu Lạc, quân Tần gặp phải cuộc kháng chiến trường kì của người Việt do Thục Phán chỉ huy.

Theo cuốn Lịch sử Việt Nam (Viện sử học - 1991): Năm 218 trước công nguyên, Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhất phải đào con kênh nối sông Lương (vùng An Hưng, Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, Đồ Thư thống lĩnh đã vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Thục Phán được các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, Nhân dân Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức,vì thiếu lương, thì Quân dân Việt, do Thục Phán chỉ huy, mới bắt đầu xuất trận. Đồ Thư đã phải bỏ mạng trong trận này. Mất chủ tướng, quân Tần hoang mang mở đường tháo chạy về nước. Sau gần 10 năm kháng chiến, nhân dân Âu Việt – Lạc Việt giành được độc lập. Thục Phán củng cố và xây dựng lại đất nước

Xây thành Cổ Loa

Sau chiến thắng trước quân Tần, An Dương Vương quyết định giao cho tướng Cao Lỗ xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự. Tục truyền rằng thành xây nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.

Di tích của thành Cổ Loa vẫn còn lưu lại cho đến nay, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía đông bắc. Đền thờ An Dương Vương nằm ở trung tâm di tích này. Các nghiên cứu khảo cổ học tại đây vẫn tiếp tục làm sáng tỏ các thời kỳ lịch sử mà thành đã trải qua.

Mắc kế thông gia và sụp đổ

Ít lâu sau, Triệu Đà từ quận Nam Hải (Quảng Đông bây giờ) sang đánh Âu Lạc. Nhờ vào chuẩn bị quân sự tốt, An Dương Vương đã chống cự được hiệu quả. Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.

Về năm mất của triều đại An Dương Vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần sách sử Việt Nam (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Việt sử Tiêu án) đều chép là An Dương Vương mất nước năm 208 TCN. Sách giáo khoa của Việt Nam căn cứ vào Sử Ký của Tư Mã Thiên ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ như vậy vì Sử Ký chép là Triệu Đà diệt nước Âu Lạc "Sau khi Lã Hậu chết", mà Lã Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước Âu Lạc mất khoảng năm 179 TCN. Truyền thuyết An Dương Vương, Nỏ Thần, và con trai Triệu Đà là Trọng Thuỷ ở rể nước Việt có nhiều chỗ không hợp với Sử Ký của Tư Mã Thiên, mặc dầu Sử Ký là nguồn tư liệu sớm nhất mà các nhà viết sử Việt Nam có được để tham khảo.

Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép dẫn theo sách Thái bình hoàn vũ ký, phần Nam Việt chí của Nhạc Sử nhà Tống: An Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương Vương có Cao Thông (Cao Lỗ) giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết chết quân [Nam] Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn. Triệu Đà biết rõ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con là Trọng Thủy sang làm tin, xin hòa hảo với nhau. Về sau, An Dương Vương đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương Vương có người con gái là Mị Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải lòng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mị Châu đòi xem nỏ thần, Mị Châu đem cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai người ruổi về báo tin cho Triệu Đà. Triệu Đà lại đem quân sang đánh úp. Khi quân Triệu kéo đến, An Dương Vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng rồi! Quân Thục chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục. Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.

Theo Wikipedia

Một số nghi vấn nữa.
-Vũ Ninh mà Triệu Đà lui về có phải bộ Vũ Ninh mà sử Tàu ghi 'có ng dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, lên làm vua hiệu là Hùng Vương' k0?
-Theo gs TQV Thục Phán có thể là người Tày (tổ tiên của Anvi?) trong tiếng Tày 'Tuk Pắn' có nghĩa là thủ lĩnh, tương tự như Khun (tiếng Thái), Cun (tiếng Mường) có thể là nguồn gốc của từ "Hùng vương"


Con cháu nước Thục ở Trung Hoa

Có thuyết cho rằng gia đình Thục Phán là hậu duệ của các vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc, chạy về phía Nam để tránh bạo loạn vào cuối thời Chiến Quốc và khi nhà Tần nổi lên. Thục Phán đã đến vùng lãnh thổ của người Âu Việt (甌越) (nay là đông nam Quảng Tây, tây nam Quảng Đông, Trung Quốc và đông bắc Việt Nam) gây dựng lực lượng quân sự tại đây.

Tuy nhiên, thuyết này bị nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ. Khoảng cách từ Tứ Xuyên tới miền Bắc Việt Nam là khoảng 3000 km*, và khoảng thời gian từ khi nước Thục bị Tần diệt (316 TCN) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Việt Nam (257 TCN) là gần 60 năm.

Sách "Ngược dòng lịch sử" của GS Trần Quốc Vượng cho rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có cơ hội khôi phục nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt của họ Hồng Bàng...


Tôi xin khẳng định điều này hoàn toàn sai. An Dương Vương không thể là người Hoa đc. Thục Phán là con vua bị xua đuổi từ trên mạn bắc nước Ba Thục rồi chạy xuống phía Nam và đánh đổ được vua Hùng sao ???
Quá ư là lệch lạc.
Khi bị đánh đuổi An Dương Vương mang được số quân thật lớn để chạy vượt hàng nghìn cây số cướp nước của Hùng Vương được sao ?? !!! ( ???? )
Mang thân chạy loạn thì cũng mang được nhiều nhất vài chục người chạy qua hàng nghìn cây số đườg rừng núi hiểm trở không bị hùm beo làm thịt thì cũng vắt ( những con kí sinh trên động vật ) làm thịt mất rồi. Chạy xuống phía Nam các bộ tộc.
Giả sử nếu có mạng được quân chạy hàng nghìn cây số như vậy thì lương thục đâu. đường rừng núi mang được thuyền chở lương đi.sao?? Xuống phía Nam dễ dàng thế sao ? nếu không hùm beo thì cũng mấy bộ lạc phía Nam làm thịt mất rồi chứ lại nổi đến nước Nam rồi cướp đất cướp nước người ta sao??
Phải chăng bị đô hộ từ thời đó do tàn quân vài chục người đánh rồi cướp được sao???

Theo tôi thấy thì Thục Phán An Dương Vương là tôc trưởng dân tộc Thái hay Tày ở phía Bắc chứ không để là ng Hoa đc
Chữ ký của Phụng_Thiên





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeThu Nov 04, 2010 8:33 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Cũng ko thể KL vội vã được. Khoảng thời gian từ khi nước Thục bị Tần diệt (316 TCN) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Việt Nam (257 TCN) là gần 60 năm. thời gian đó đủ để cho 1 cuộc di cư lớn của ng Thục (nếu có)

Nếu chỉ con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, mang 1 nhóm ng lưu vong về phía đông nam lập nên Âu Việt thì cũng có thể như trường hợp Thái Bá nhà Chu nhường ngôi cho em, đi về phương nam lập nên nước Ngô (theo truyền thuyết của Tàu)

Thời đó có khi '...dùng ảo thuật áp chế được các bô tộc' như Hùng vương

Thời trung đại, người Thái ở Vân Nam (nước Nam chiếu) bị ng Hán dồn đuổi xuống phía nam mà lập nên Thái lan bây giờ đó
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeThu Nov 04, 2010 10:07 am

Phụng_Thiên
Gần bóng đèn, xa lọ mực

Thành viên cấp 3

Phụng_Thiên

Thành viên cấp 3

Họ & tên Họ & tên : Hoàng Thiên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 21/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Đến từ Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Gần bóng đèn, xa lọ mực
Điểm thành tích Điểm thành tích : 151
Được cám ơn Được cám ơn : 12

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thanhsamkhach đã viết:
Cũng ko thể KL vội vã được. Khoảng thời gian từ khi nước Thục bị Tần diệt (316 TCN) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Việt Nam (257 TCN) là gần 60 năm. thời gian đó đủ để cho 1 cuộc di cư lớn của ng Thục (nếu có)

Nếu chỉ con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, mang 1 nhóm ng lưu vong về phía đông nam lập nên Âu Việt thì cũng có thể như trường hợp Thái Bá nhà Chu nhường ngôi cho em, đi về phương nam lập nên nước Ngô (theo truyền thuyết của Tàu)

Thời đó có khi '...dùng ảo thuật áp chế được các bô tộc' như Hùng vương

Thời trung đại, người Thái ở Vân Nam (nước Nam chiếu) bị ng Hán dồn đuổi xuống phía nam mà lập nên Thái lan bây giờ đó

Trải qua 60 năm lưu lạc kí chắc quân kĩ cũng tầm trên 70 tuổi cả rồi dẹp được 1 cái làng toàn trai cày thì chắc bỏ mạng gần hết chứ chưa nói đến là cả 1 đất nước vùng phía Nam. Vớ vẩn quá 60 năm chắc phải lập được 1 căn cứ khá lớn nhưng bị sự truy lùng ráo riết kia liệu có mang được hàng vạn người đy đánh nước Việt được không,
Mà nếu có số lượng quân lớn thì nó chẳng bao giờ chạy đy cả chưa kể trên đương bị chặn đánh rồi dịch bệnh truy kích thì nếu sang đến nơi cũng chỉ còn vài con ngựa cùng vaì lính thôi
Chữ ký của Phụng_Thiên





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeSat Nov 06, 2010 10:02 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Phụng_Thiên đã viết:

Trải qua 60 năm lưu lạc chắc quân kĩ cũng tầm trên 70 tuổi cả rồi dẹp được 1 cái làng toàn trai cày thì chắc bỏ mạng gần hết chứ chưa nói đến là cả 1 đất nước vùng phía Nam. Vớ vẩn quá 60 năm chắc phải lập được 1 căn cứ khá lớn nhưng bị sự truy lùng ráo riết kia liệu có mang được hàng vạn người đy đánh nước Việt được không,Mà nếu có số lượng quân lớn thì nó chẳng bao giờ chạy đy cả chưa kể trên đương bị chặn đánh rồi dịch bệnh truy kích thì nếu sang đến nơi cũng chỉ còn vài con ngựa cùng vaì lính thôi
Một cuộc di cư 60 năm qua 3000 km (nếu có) chắc hẳn là cuộc di cư của cả 1 tộc người (nam, nữ, trẻ em) và nhiều giai đoạn chớ ko phải đi 1 mạch. Trên đường thiên di đã có thể sinh ra 1 vài thế hệ, đã dừng chân đâu đó vài năm hay vài chục năm rồi mới đi tiếp

Cuộc di cư của 1 tộc người đã từng diễn ra nhiều lần trong LS thế giới (truyền thuyết trái tim Đan cô)

Ở VN có tộc ng Mèo thiên di từ phương Bắc xuống (ng Miêu TQ)

Bản thân tộc Lạc Việt cũng là pha trộn 2 chủng chính Mongoloid (vàng) và Australoid (đen) trong đó sắc vàng dần lấn sắc đen
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeSat Nov 06, 2010 10:34 am

Phụng_Thiên
Gần bóng đèn, xa lọ mực

Thành viên cấp 3

Phụng_Thiên

Thành viên cấp 3

Họ & tên Họ & tên : Hoàng Thiên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 21/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Đến từ Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Gần bóng đèn, xa lọ mực
Điểm thành tích Điểm thành tích : 151
Được cám ơn Được cám ơn : 12

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thanhsamkhach đã viết:
Phụng_Thiên đã viết:

Trải qua 60 năm lưu lạc chắc quân kĩ cũng tầm trên 70 tuổi cả rồi dẹp được 1 cái làng toàn trai cày thì chắc bỏ mạng gần hết chứ chưa nói đến là cả 1 đất nước vùng phía Nam. Vớ vẩn quá 60 năm chắc phải lập được 1 căn cứ khá lớn nhưng bị sự truy lùng ráo riết kia liệu có mang được hàng vạn người đy đánh nước Việt được không,Mà nếu có số lượng quân lớn thì nó chẳng bao giờ chạy đy cả chưa kể trên đương bị chặn đánh rồi dịch bệnh truy kích thì nếu sang đến nơi cũng chỉ còn vài con ngựa cùng vaì lính thôi
Một cuộc di cư 60 năm qua 3000 km (nếu có) chắc hẳn là cuộc di cư của cả 1 tộc người (nam, nữ, trẻ em) và nhiều giai đoạn chớ ko phải đi 1 mạch. Trên đường thiên di đã có thể sinh ra 1 vài thế hệ, đã dừng chân đâu đó vài năm hay vài chục năm rồi mới đi tiếp

Cuộc di cư của 1 tộc người đã từng diễn ra nhiều lần trong LS thế giới (truyền thuyết trái tim Đan cô)

Ở VN có tộc ng Mèo thiên di từ phương Bắc xuống (ng Miêu TQ)

Bản thân tộc Lạc Việt cũng là pha trộn 2 chủng chính Mongoloid (vàng) và Australoid (đen) trong đó sắc vàng dần lấn sắc đen

với 60 năm trong khi theo suy luận trên thì lúc đó An Dương Vương tức Thục Phán là hoàng tử của nước Thục trải qua quãng đường hơn mấy nghìn cây số. Chắc chắn đến nơi ông ấy đã nằm trong hòm rồi đâu có lấy vợ rồi sinh tiếp Mị Nương đến mười mấy năm sau tức là ông khoảng tầm 80-90 tuổi để mà gả con gái chứ ???
buồn cười !!
Chữ ký của Phụng_Thiên





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeMon Nov 08, 2010 8:02 am

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Phụng_Thiên đã viết:

với 60 năm trong khi theo suy luận trên thì lúc đó An Dương Vương tức Thục Phán là hoàng tử của nước Thục trải qua quãng đường hơn mấy nghìn cây số. Chắc chắn đến nơi ông ấy đã nằm trong hòm rồi đâu có lấy vợ rồi sinh tiếp Mị Nương đến mười mấy năm sau tức là ông khoảng tầm 80-90 tuổi để mà gả con gái chứ ???
buồn cười !!

Bạn xem lại giả thuyết trên. An Dương Vương tức Thục Phán ko phải là hoàng tử của nước Thục mà là hoàng tôn
Theo các nghiên cứu khảo cổ mới nhất thì thành Cổ Loa được xây đắp tới 3 lần và lần cuối lớn nhất khoảng 200 tcn tương ứng với thời điểm được cho là Thục Phán lên ngôi. Như vậy cuộc thiên di (nếu có) kéo dài tới hơn 100 năm, cũng ko dài nếu so với vụ 'mở cõi' của họ Nguyễn ở Đàng trong?

Có thuyết cho rằng gia đình Thục Phán là hậu duệ của các vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc, chạy về phía Nam để tránh bạo loạn vào cuối thời Chiến Quốc và khi nhà Tần nổi lên. Thục Phán đã đến vùng lãnh thổ của người Âu Việt (甌越) (nay là đông nam Quảng Tây, tây nam Quảng Đông, Trung Quốc và đông bắc Việt Nam) gây dựng lực lượng quân sự tại đây.

Tuy nhiên, thuyết này bị nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ. Khoảng cách từ Tứ Xuyên tới miền Bắc Việt Nam là khoảng 3000 km*, và khoảng thời gian từ khi nước Thục bị Tần diệt (316 TCN) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Việt Nam (257 TCN) là gần 60 năm.

Sách "Ngược dòng lịch sử" của GS Trần Quốc Vượng cho rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có cơ hội khôi phục nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt của họ Hồng Bàng...
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeTue Nov 09, 2010 11:43 am

Phụng_Thiên
Gần bóng đèn, xa lọ mực

Thành viên cấp 3

Phụng_Thiên

Thành viên cấp 3

Họ & tên Họ & tên : Hoàng Thiên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 21/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Đến từ Đến từ : TP. Hồ Chí Minh
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Gần bóng đèn, xa lọ mực
Điểm thành tích Điểm thành tích : 151
Được cám ơn Được cám ơn : 12

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Thanhsamkhach đã viết:
Phụng_Thiên đã viết:

với 60 năm trong khi theo suy luận trên thì lúc đó An Dương Vương tức Thục Phán là hoàng tử của nước Thục trải qua quãng đường hơn mấy nghìn cây số. Chắc chắn đến nơi ông ấy đã nằm trong hòm rồi đâu có lấy vợ rồi sinh tiếp Mị Nương đến mười mấy năm sau tức là ông khoảng tầm 80-90 tuổi để mà gả con gái chứ ???
buồn cười !!

Bạn xem lại giả thuyết trên. An Dương Vương tức Thục Phán ko phải là hoàng tử của nước Thục mà là hoàng tôn
Theo các nghiên cứu khảo cổ mới nhất thì thành Cổ Loa được xây đắp tới 3 lần và lần cuối lớn nhất khoảng 200 tcn tương ứng với thời điểm được cho là Thục Phán lên ngôi. Như vậy cuộc thiên di (nếu có) kéo dài tới hơn 100 năm, cũng ko dài nếu so với vụ 'mở cõi' của họ Nguyễn ở Đàng trong?

Có thuyết cho rằng gia đình Thục Phán là hậu duệ của các vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc, chạy về phía Nam để tránh bạo loạn vào cuối thời Chiến Quốc và khi nhà Tần nổi lên. Thục Phán đã đến vùng lãnh thổ của người Âu Việt (甌越) (nay là đông nam Quảng Tây, tây nam Quảng Đông, Trung Quốc và đông bắc Việt Nam) gây dựng lực lượng quân sự tại đây.

Tuy nhiên, thuyết này bị nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ. Khoảng cách từ Tứ Xuyên tới miền Bắc Việt Nam là khoảng 3000 km*, và khoảng thời gian từ khi nước Thục bị Tần diệt (316 TCN) đến khi An Dương Vương lên ngôi ở Việt Nam (257 TCN) là gần 60 năm.

Sách "Ngược dòng lịch sử" của GS Trần Quốc Vượng cho rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có cơ hội khôi phục nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt của họ Hồng Bàng...

Thật sự quá vớ vẩn 3000 km thời đó đy ngựa thì không biết phải thay đến mấy trăm con ngựa / 1 người
Không phải là nghi ngờ mà là quá vô lý.
Chữ ký của Phụng_Thiên





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitimeTue Nov 09, 2010 2:56 pm

Thanhsamkhach
Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi

Thành viên năng động

Thanhsamkhach

Thành viên năng động

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên năng động
Ngày tham gia Ngày tham gia : 22/07/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 511
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : Tôi yêu sử và tôi yêu văn. Cho tôi tâm hồn, cho tôi ý chí. Có nhiều lúc ngã lòng rơi lệ. Vịn câu thơ tôi đứng dậy mà đi
Điểm thành tích Điểm thành tích : 679
Được cám ơn Được cám ơn : 106

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Một cuộc di cư đâu phải là chuyển quân mà đi hết mấy trăm con ngựa mà vùng trên đó cũng ko thích hợp đi ngựa (đọc Thục đạo nan của Đỗ Phủ: Y hu hi , nguy hồ cao tai...)

Một cuộc di cư của 1 tộc ng như đã nói gồm nhiều thành phần, đi từ từ, có thể dùng lại đâu đó vài năm, vài chục năm, rồi đi tiếp, trên đường đi có thể sinh ra vài thế hệ kế tục

Cuộc di cư của dân Do thái từ Ai cập về miền đất hứa ngắn hơn nhiều mà còn đi hết 40 năm mới về định cư được ở Canaan. Và ng thủ lĩnh tinh thần (Moise) chỉ là 1 ông già chăn cừu được ơn trên kêu gọi (và được cho là sống gần trăm tuổi)
Chữ ký của Thanhsamkhach





Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906) I_icon_minitime



Sponsored content

Bài gửiTiêu đề: Re: Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

 
Chữ ký của Sponsored content




 

Thời Bắc Thuộc (207 tr.CN - 906)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: VIỆT SỬ :: Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại :: Thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN – 938)-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất