CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Tư sản dân quyền
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ NỬA SAU THẾ KỈ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ  NỬA SAU THẾ KỈ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX I_icon_minitimeWed Sep 22, 2010 9:49 am

nguyenkien19489

Thành viên mới gia nhập

nguyenkien19489

Thành viên mới gia nhập

Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Thành viên
Ngày tham gia Ngày tham gia : 14/05/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 1
Điểm thành tích Điểm thành tích : 2
Được cám ơn Được cám ơn : 0

Bài gửiTiêu đề: PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ NỬA SAU THẾ KỈ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX

 
LỜI MỞ ĐẦU
Từ nửa sau thế kỉ XIX, sau khi hoàn thành việc chinh phục Ấn Độ và các nước thuộc địa khác, thực dân Anh ra sức tăng cường và củng cố sự thống trị của mình. Trong giai đoạn này, nước Anh và các nước tư bản Tây Âu khác đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, do vậy các chính sách thống trị của bọn thực dân Anh ở Ấn Độ cũng tàm bạo và xảo quyệt hơn trước.
Xét về mặt lịch sử văn hóa thì Ấn Độ là quốc gia có nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo khác nhau, văn hóa phong phú đa dạng. Lợi dụng vào sự khác biệt như vậy nên giai đoạn từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Anh đã có những chính sách nhằm khơi sâu sự chia rẽ dân tộc trong xã hội Ấn Độ, và điều này là một trong những hạn chế lớn nhất dẫn đến sự thất bại của các phong trào giải phóng dân tộc.
Sự thống trị, bóc lột của thực dân xâm lược, cấu kết với bọn phong kiến tay sai làm cho nhân dân lao động Ấn Độ ngày càng khốn khổ. Lực lượng chủ yếu trong các cuộc đấu tranh là nhân dân lao động bao gồm công nhân và nông dân, trong đó giai cấp công nhân về sau có sự thay đổi tiến bộ về hình thức đấu tranh.
Những nội dung chủ yếu về chính sách thống trị và phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ từ nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX sẽ được trình bày một cách khái quát nhất nhằm phác thảo lại tình hình Ấn Độ trong giai đoạn này.

1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN ANH Ở ẤN ĐỘ
Từ thế kỉ XVI, thực dân phương Tây đã dòm ngó và từng bước xâm nhập vào thị trường phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ. Sau khi mở con đường biển đến Ấn Độ, Bồ Đào Nha chiếm một số căn cứ quan trọng ở phía tây nam. Trong đó, Goa là vị trí quan trọng nhất. Đến nửa sau thế kỉ XVII, Hà Lan đánh bại ưu thế buôn bán của Bồ Đào Nha và cướp được một số vùng trừ Goa, Điu và Đaman ở bờ biển phía tây.
Bằng sức mạnh quân sự, thực dân Anh buộc chính quyền Mô gôn trao quyền thiết lập một đại lí tạm thời ở Xu rát, sau chuyển về Bombay. Đến giữa thế kỉ XVII, lập thêm căn cứ Mađrát, Cancutta... Thực dân Pháp xuất hiện vào những năm cuối thế kỉ XVII với các đại lí ở Săngđecnago, Pôngđisêri... Đan Mạch, Thụy Điển, Áo và nhiều nước khác cũng đặt chân lên mảnh đất phì nhiêu này. Các nước châu Âu đều thực hiện âm mưu xâm lược thông qua hoạt động của các công ty Đông Ấn - một tổ chức nắm độc quyền của mỗi nước trong việc buôn bán với phương Đông.
Đến giữa thế kỉ thứ XVII, hoạt động của các công ty được đẩy mạnh, Pháp chiếm được một số ưu thế nhất định ở Ấn Độ: thành lập những đội quân đánh thuê người Ấn (Xipay), đưa quân đi chiếm đóng một số nơi và được bọn phong kiến giúp đỡ, giành được hai vương quốc rộng lớn đó là Haiđerabát và Cacnatich. Điều đó làm cho Anh lo sợ và cố giành quyền bá chủ. Do những cuộc chiến tranh ở châu đã gây ra cuộc chiến giữa Anh và Pháp diễn ra ở Ấn Độ (1746-1763). Kết quả, Pháp thất bại chỉ giữ được vùng Pôngđisêr và 4 thành phố ở vùng ven biển. Tuy nhiên Anh cũng chưa chiếm được nhiều đất đai lắm.
Sau khi chiếm được ưu thế so với các nước phương tây khác ở Ấn Độ, thực dân Anh tăng cường bành trướng đất đai. Từ Mađrat chúng biến vương quốc Cacnatich thành thuộc quốc. Chúng tăng cường hoạt động ở vùng Bengan, nơi đã đặt được 150 kho hàng và 15 đại lí lớn. Nhưng ở đây chúng gặp phải sự kháng cự quyết liệt của dân chúng Bengan do nhà vua trẻ tuổi Xirat Ut Đôilê đứng đầu. Nghĩa quân đã chiếm được Cancutta, buộc bọn thực dân Anh phải bỏ chạy. Sau đó, Anh điều quân về đàn áp. Trận Plêxi năm 1757 diễn ra rất ác liệt, bảy vạn quân Bengan chiến đấu ngoan cường bị thất bại. Xirat Ut Đôilê bị bắt và hành hình. Quân Anh tàn phá Bengan, cướp đoạt nhiều tiền bạc, đốt cháy nhà cửa của nhân dân. Sự đàn áp dã man đã gây nên sự căm phẫn trong nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra ở nhiều thành phố thuộc Bengan được sự ủng hộ của vương quốc láng giềng Aođơ và đội quân Apganixtan từ Đêli tới. Nhưng lực lượng nghĩa quân bị thất bại. Công ty Đông Ấn của anh giành được quyền thu thuế, đóng quân, lập tòa án và thiết lập bộ máy cai trị trên mảnh đất rộng lớn nhất của Ấn Độ. Vương quốc Aođơ cũng bị lệ thuộc vào Ấn Độ.
Ở phía Nam, vương quốc Haiđerabat khá rộng lớn bị Anh chinh phục.
Ở phía Tây, bọn thực dân từ Bombay định bành trướng ra vùng xung quanh. Thấy rõ nguy cơ mất nước, nhà vua Haiđa Ali của vương quốc Maixuya tập hợp lực lượng kháng chiến. Sau khi Haiđa Ali chết, con trai Tipu lên ngôi vẫn tiếp tục kháng chiến, kêu gọi sự thống nhất của các vương quốc Ấn Độ và chiến đấu rất ngoan cường. Nhưng thực dân Anh xảo quyệt lôi kéo các vương quốc xung quanh, cô lập Maixuya, tiến hành áp bức buộc Tipu phải kí hòa ước năm 1792 cắt một nửa lãnh thổ cho công ty Đông Ấn. Đến năm 1796, chúng nổ súng tấn công vào phần đất còn lại của Maixuya và chinh phục hoàn toàn vương quốc này, Tipu bị tử trận.
Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, những vùng đất giàu có nhất của Ấn Độ như Bengan, các nước xung quanh và toàn bộ miền Nam rơi vào tay thực dân Anh.
Song song với quá trình xâm lược, thực dân Anh nhanh chóng đặt ách thống trị ở Ấn Độ. Cơ quan có toàn quyền cai trị ở đây là công ty Đông Ấn. Các chính khách, bọn con buôn và tập đoàn thống trị ra sức củng cố địa vị trong công ty qua đó để tăng cường bóc lột Ấn Độ. Năm 1773, Nghị viện Anh thông qua về đạo luật cai trị Ấn Độ, quy định tổng đốc của công ty ở Cancutta đồng thời giữ chức toàn quyền trên toàn bộ lãnh địa Anh ở Ấn Độ. Viên toàn quyền cùng với một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định nắm quyền hành chính, bên cạnh có một tòa án tối cao. Đồng thời ở London thiết lập một hội đồng kiểm soát các công việc của công ty ở Ấn Độ do nhà vua chỉ định bao gồm một số thành viên của nội các.
Tính chất của sự bóc lột trong thời kì này tương ứng với thời kì tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản Anh. Cho nên thủ đoạn bóc lột chủ yếu là thu thuế và vơ vét. Việc buôn bán giữa Anh và Ấn Độ được tiến hành theo một tỉ lệ thu thuế chênh lệch khá nghiêm trọng: hàng từ Ấn Độ sang Anh đánh thuế gấp 10 lần hàng từ Anh sang Ấn Độ. Hậu quả tất nhiên của sự cướp bóc đó là tình trạng ngày càng khổ của nhân dân Ấn Độ. Nạn đói xảy ra liên tiếp, riêng năm 1770 đã có tới 10 triệu người chết đói.
Ở Ấn Độ, thế kỉ XIX được bắt đầu bằng việc mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Anh và những cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân. Năm 1806, các trung đoàn Xipay nổi dậy ở Benlua. Năm 1816, binh lính Ấn khởi nghĩa ở Bombay. Đông đảo quần chúng nông dân đứng lên chống Anh ở khắp nơi. Xe6it Acmet Barenvi (1786-1831) đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, lập căn cứ biên giới phía tây bắc. Cấp tiến hơn là phong trào của Đađu Mian ở Bengan vừa chống thực dân Anh vừa chống bọn quý tộc phong kiến. Nhưng do tính chất phân tán, thiếu tổ chức và sự hạn chế về thành kiến về tôn giáo nên phong trào bị thất bại. Để hoàn thành mưu đồ xâm lược, thực dân Anh chĩa mũi nhọn chủ yếu vào các vương quốc của người Marat ở miền Trung Ấn Độ. Ngay từ đầu, nhân dân Marat đã đứng lên đấu tranh chống xâm lược một cách kiên quyết. Nhưng tình trạng cát cứ phong kiến, chiến tranh liên tiếp giữa các vương quốc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và mâu thuẫn gay gắt trong các tập đoàn phong kiến tạo nên thời cơ thuận lợi cho thực dân Anh. Cuộc chiến tranh năm 1803-1805 đem lại cho Anh thêm những phần đất ở miền Trung và ngay thủ đô Đeli cũng bị thất thủ. Đến năm 1817, vương quốc Marat hoàn toàn bị chinh phục. Từ đó thực dân Anh tiếp tục bành trướng ra xung quanh và bán đảo Ấn Độ chỉ còn lại một quốc gia độc lập là Penjap.
Đầu thế kỉ XIX, do nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm, khuynh hướng xây dựng một quốc gia tập quyền thể hiện rõ ở Penjap. Ranjit Xinh là người hoàn thành nhiệm vụ đó với một chính quyền mạnh mẽ, một quốc gia thống nhất, một đội quân hùng mạnh được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên trong quá trình phát triển quyền lực và mở mang bờ cõi, Penhap không tránh khỏi mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn phong kiến ngày càng gay gắt, mâu thuẫn dân tộc giữa người Xích với các dân tộc bị chinh phục như người Casomi, người Patan... và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị.
Sau khi Ranjit Xinh chết (1839), cuộc tranh chấp giữa các thế lực phong kiến bùng nổ. Quân đội Penjap đã nhanh chóng chặn đứng những âm mưu phản động. Năm 1841 họ nổi dậy giết bọn sĩ quan phản động, thành lập những ủy ban do họ cử ra gồm 5 người gọi là “pantraiat”. Pantraiat ỏ thủ đô Laho đã giành quyền kiểm soát những hành động cùa chính phủ.
Bọn phong kiến Penjap lo sợ trước sức mạnh của quần chúng nhân dân và hoạt động của pantraiat đã cấu kết với thực dân Anh là kẻ đang muốn thôn tính vùng đất cuối cùng của Ấn Độ. Cuối năm 1845, quân đội và nhân dân Penjap chiến đấu dũng cảm chống bọn thực dân Anh. Nhưng do sự phản bội của bọn phong kiến, trong đó bọn sĩ quan cao cấp đã trao cho địch kế hoạch quân sự nên nghĩa quân bị thất bại. Penjap trở thành thuộc quốc của Anh. Năm 1848, nhân dân Penjap kiên cường chống lại Anh, giành được thắng lợi ban đầu, nhưng sau đó bị thất bại.
Đến năm 1849, thực dân Anh đã hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ.

2. CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ CỦA THỰC DÂN ANH VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH Ở ẤN ĐỘ NỬA SAU THẾ KỈ XIX
2.1. Chính sách thống trị
Về chính trị: Sau khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, thực dân Anh thi hành một số biện pháp củng cố và tăng cường ách thống trị của chúng. Năm 1858, Nghị viện Anh ra lệnh giải tán hoàn toàn công ty Đông Ấn và đặt Ấn Độ dưới quyền cai trị trực tiếp bởi chính phủ. Thay mặt chính phủ Anh ở Ấn Độ là một viên Phó vương với một hội động điều hành gồm 5 ủy viên, có quyền lực như một chính phủ. Quyền lập pháp cũng ở trong tay Phó vương và một hội đồng cố vấn 12 người. Để lôi kéo bọn phong kiến, chúng tuyên bố tôn trọng quyền lợi, danh dự, tài sản và các đặc quyền của bọn phong kiến. Đây là một hành động nhằm hợp pháp hóa chế độ đẳng cấp và các tàn dư trung cổ lỗi thời, khơi sâu sự cách biệt về chủng tộc và tôn giáo trong xã hội Ấn Độ. Năm 1877, nữ hoàng Anh Victoria chính thức tuyên bố lên ngôi vua ở Ấn Độ trong một buổi lễ có đông đảo quý tộc người Ấn tham gia. Nó đánh dấu bước hoàn thành việc chinh phục Ấn Độ thành thuộc địa của Anh và bộc lộ rõ thái độ quy phục của giai cấp phong kiến Ấn Độ.










Nữ hoàng Victoria (1837 – 1901)

Về quân sự: Chúng tăng cường lực lượng quân đội, cứ 2 đến 8 lính Ấn thì có một lính Anh. Pháo binh và các ngành kĩ thuật trong tay thực dân Anh.
Về kinh tế: Ấn Độ trở thành một thị trường tiêu thụ quan trọng nhất của nền công nghiệp Anh. Trong 10 năm từ 1873-1883, thương mại giữa Anh và Ấn Độ tăng 60% trong khi thương mại giữa Anh, Pháp và Đức chỉ tăng 7%. Ấn Độ phải tăng cường cung cấp lương thực và nguyên liệu cho Anh. Cuộc cải cách tài chính năm 1893-1899 với đồng Rupi vàng và việc mở mang hệ thống ngân hàng Anh làm cho nền tài chính Ấn Độ phụ thuộc hoàn toàn vào Anh. Ấn Độ còn là thị trường đầu tư của tư bản Anh. Ban đầu, hình thức xuất vốn là cho vay. Từ năm 1856-1900, ngân hàng Lodon cho bọn cầm quyền Anh ở Ấn Độ vay tăng từ 4 triệu lên 133 triệu livrơ để chi phí vào bộ máy hành chính và quân đội, vào những cuộc chiến tranh ăn cướp vào các nước phương Đông. Toàn bộ món nợ và số lãi đều đè lên vai nhân dân các nước thuộc địa. Một phần vốn xuất cảng được dùng vào việc xây dựng đường sắt và các phương tiện giao thông liên lạc để tạo điều kiện khai thác và vận chuyển nguyên liệu ra bến cảng đưa về Anh. Những đường tàu kéo dài đến vùng hẻo lánh còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc chuyển quân nhanh chóng, kịp thời đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Đến năm 1891, đường sắt Ấn Độ dài 28.000km. Một số xí nghiệp công nghiệp bắt đầu được xây dựng, chủ yếu là những ngành vải sợi, chế biến nguyên liệu địa phương như đay, bông...
Số lương thực xuất khẩu Số người chết đói
Năm Số lượng Năm Số người chết
1849
1858
1901 858.000 livrơ
3.800.000 livrơ
9.300.000 livrơ 1825-1850
1850-1875
1875-1900 400.000
5.000.000
15.000.000
Việc tăng cường xuất cảng nguyên liệu làm cho tính chất hàng hóa nông nghiệp thêm đậm nét. Nhiều vùng được chuyên môn hóa sản xuất: Bengan trồng đay, Bombay và Trung Ấn trồng bông, Atxam trồng chè, Mađrat trồng cây có dầu, Penjap trồng tiểu mạch. Tính chất hàng hóa nông nghiệp tăng lên trong điều kiện chế độ sở hữu về ruộng đất phong kiến vẫn được duy trì, bãi chăn nuôi, đất đai và rừng của công xã bị chiếm đoạt, nợ nần chồng chất buộc người nông dân phải gán mảnh đất cuối cùng của mình và chịu lĩnh canh với điều kiện nộp tô đến 60% hoa lợi. Tình trạng đó sẽ dẫn tới chỗ sức sản xuất thấp kém, đời sống nông thôn khốn quẫn, nạn đói trở thành một điều tất yếu. Bảng thống kê sau cho ta thấy được số lượng lương thực các năm không ngừng tăng lên nhưng số người chết đói lại tăng theo, đây là một điều nghịch lý bởi lẽ số lương thực này chủ yếu xuất khẩu sang Anh và người dân Ấn Độ tất nhiên sẽ bị thiếu lương thực và chết đói.













































Như vậy, trong vòng nửa sau thế kỉ XIX, số lượng lương thực xuất khẩu tăng lên hơn 10 lần thì số người dân Ấn Độ chết đói tăng lên gần 40 lần.

2.2. Phong trào đấu tranh


Lược đồ phong trào cách mạng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX




* Của nông dân
Dưới ách thống trị thực dân, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa khắp nơi chống lại thực dân Anh, đồng thời tấn công vào bọn phong kiến. Năm 1872, ở Penjap đã nổi lên phong trào Namhari (có nghĩa là những người được Thượng đế cổ vũ) mang màu sắc tôn giáo do Ram Xinh lãnh đạo. Cùng khoảng đầu những năm 70, khởi nghĩa nông dân diễn ra ở Bengan, Maharaxtơra... Đáng chú ý là phong trào do Vaxuđê Banvăng Pơhatke lãnh đạo ở Puna. Pơhatke là một trí thức nhỏ, người Marat, có tinh thần yêu nước, tổ chức nghĩa quân trong núi, tuyên bố chống Anh. Nhiều nhóm nông dân tham gia tổ chức nghĩa quân, tấn công vào trại ấp của địa chủ và bọn cho vay, hủy bỏ văn tự cầm ruộng và vay nợ. Dưới danh nghĩa là “Người được Nan Xahip giao phó”, nghĩa quân hoạt động khắp vùng Maharaxtơra, làm cho quân Anh hoảng sợ. Chúng phải điều quân nhiều nơi đến để đối phó. Một tên phản bội đã bắt và giao nộp Pơhatke cho Anh. Ông bị kết án và khổ sai chung thân. Cùng trong thời gian này nhiều cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân tấn công vào thực dân Anh, phá hủy trang trại của bọn địa chủ phong kiến và bọn cho vay nặng lãi.



















* Của công nhân Ấn Độ
Cùng với sự ra đời của nền công nghiệp cơ khí, giai cấp công nhân Ấn Độ đã ra đời và từng bước phát triển. Đến cuối thế kỉ XIX ở Ấn Độ có khoảng nửa triệu công nhân công nghiệp. Họ thường xuất thân từ nông dân hay thợ thủ công bị phá sản. Họ chịu sự bóc lột của thực dân Anh và tư sản Ấn Độ. Điều kiện lao động cực khổ, ngày làm việc kéo dài từ sáng đến tối, đồng lương bị cắt xén, chịu nhiều khoản cúp phạt, sinh hoạt theo chế độ trại lính. Lao động phụ nữ và trẻ em càng khổ cực hơn, đồng lương thấp kém hơn. Cho nên chỉ vài năm sau làm việc ở xưởng, người công nhân trở nên tàn phế, mất sức lao động. Những thành kiến lâu đời về đẳng cấp, tôn giáo, dân tộc... đã hạn chế sự thống nhất và sự giác ngộ của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, trong tình trạng bị bóc lột nặng nề, giai cấp công nhân Ấn Độ đã vùng lên mạnh mẽ từ những năm 70. Năm 1877, xảy ra một cuộc bãi công ở các nhà máy hoàng gia Nagơpua. Từ 1882-1890 có 25 cuộc bãi công bùng nổ ở vùng Bombay và Mađrat. Năm 1895 ở Acmêđabat, 8 ngàn công nhân tiến hành bãi công nhằm chống lại tổ chức “ Hội các chủ xưởng Acmêđabat”. Những cuộc bãi công đều mang tính chất tự phát và nặng mục đích kinh tế, chưa có tổ chức bài bản. Năm 1884, nhà báo tiến bộ Lochan đã thay mặt công nhân Bombay gửi kiến nghị đòi hạn chế thời gian lao động, thi hành chế độ nghỉ trưa và nghỉ một ngày trong tuần, đòi trợ cấp cho người tàn phế.
Cho đến cuối thế kỉ XIX, các công nhân tiên tiến đã bắt đầu tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Tuy đó chưa phải là một lực lượng lớn mạnh nhưng nó sẽ đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ.
* Của giai cấp tư sản
Chủ nghĩa tư bản Anh được du nhập vào Ấn Độ đã gây nên tác hại nghiêm trọng đối với nền thủ công nghiệp và sức sản xuất nói chung. Nhưng mặt khác, nó cũng dẫn tới một hệ quả khách quan không tránh khỏi là sự phát triển một số nhân tố của chủ nghĩa tư bản dân tộc Ấn Độ. Bên cạnh những nhà máy của Anh đã xuất hiện những nhà máy của người Ấn Độ. Năm 1853, nhà máy bông sợi đầu tiên được khánh thành ở Bombay. Năm 1880 có 156 nhà máy sử dụng 44 ngàn công nhân. Năm 1900 có 193 nhà máy với 161 ngàn công nhân. Đương nhiên, đó không phải là do ý muốn của người Anh mà trái lại, giai cấp tư sản Ấn Độ phải đương đầu với nhiều khó khăn nên phát triển chậm chạp. Sự suy tàn của các ngành thủ công diễn ra nhanh hơn nhiều so với sự phát triển của các nhà máy. Và các nhà máy phải chịu sự quản lý của các ngân hàng và công ty Anh. Cho nên các tiểu chủ, chủ công trường thủ công và chủ nhà máy muốn kinh doanh phải có nhiều vốn và được bọn cầm quyền Anh cho phép. Còn tầng lớp đại tư sản công nghiệp chủ yếu hình thành từ bọn cho vay nặng lãi và bọn mại bản có liên quan với thực dân Anh. Muốn giảm bớt khó khăn, một bộ phận tư sản bỏ vốn kinh doanh ruộng đất nên thường có liên hệ chặt chẽ với tầng lớp địa chủ. Tình hình đó làm cho tư sản Ấn Độ mang đặc điểm riêng biệt của nó. Một mặt do yêu cầu phát triển kinh doanh, nó muốn thoát khỏi sự chèn ép và bó buộc của thực dân Anh, muốn xây dựng một nước Ấn Độ độc lập và phồn vinh. Tầng lớp trí thức tiếp thu tư tưởng của phương tây bao gồm các nhà luật học, thầy thuốc, thầy giáo... càng khao khát quyền dân chủ, bình đẳng. Nhưng mặt khác, do cơ sở kinh tế yếu ớt, ít nhiều bị lệ thuộc vào thực dân Anh nên họ thiếu kiên quyết trong quá trình đấu tranh cho nền độc lập dân tộc.
Phong trào tư sản dân tộc Ấn Độ ra đời từ những năm 70 của thế kỉ XIX thường do các trí thức chủ trì dưới hình thức các hội khai hóa. Đến cuối năm 1885, đảng Đại hội Quốc dân toàn Ấn Độ (gọi tắt là đảng Quốc đại) được thành lập ở Bombay. Trong đại hội đầu tiên, một nửa số đại biểu thuộc các tầng lớp trí thức tư sản cao cấp, một nửa còn lại là các nhà công nghiệp, thương gia và địa chủ. Ban đầu, thực dân Anh chủ trương ủng hộ việc thành lập đảng Quốc đại hòng dùng nó làm công cụ xoa dịu mối bất mãn của các tầng lớp nhân dân và hạn chế phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Viên quan cao cấp Anh là Hium làm Tổng thư kí của đảng. Vì thế những vấn đề thảo luận trong đại hội đều không đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc mà chỉ đưa ra yêu sách về quyền tự trị và bình đẳng của người Ấn Độ, bảo vệ và phát triển công nghiệp, giảm thuế, chống sự khác biệt về thuế quan... Họ dự định đạt được các yêu cầu bằng biện pháp hòa bình trong khuôn khổ hiến pháp, cải cách xã hội từng bước mà không đề ra chủ trương cách mạng.
Đảng Quốc đại ra đời với tư cách là đảng đầu tiên của giai cấp tư sản Ấn Độ. Trong những năm đầu, nó còn yếu về mặt tổ chức vì thành viên chỉ tham gia việc bầu đại biểu đi dự đại hội hàng năm. Hoạt động của nó chỉ giới hạn trong việc tuyên truyền trên báo chí, gửi kiến nghị lên Nghị viện Anh đòi ngăn cấm tham nhũng, xa cách với phong trào đấu tranh của quần chúng. Tuy vậy sự thành lập đảng Quốc đại đã chứng tỏ giai cấp tư sản Ấn Độ đã bước lên vũ đài chính trị ở một mức độ nhất định, nó vượt ra ngoài ý định của bọn cầm quyền Anh, dần dần thể hiện thái độ độc lập, phản ánh một phần nào nguyện vọng của nhân dân.
Trong quá trình đấu tranh, đảng Quốc đại xuất hiện một cánh dân chủ cấp tiến bao gồm những người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, chủ công trường và xí nghiệp nhỏ, chủ các xưởng thủ công, trí thức và viên chức nhỏ.... Lãnh tụ của phái này là Tilắc (1856-1920) xuất thân trong một gia đình quý tộc Bàlamôn đã phá sản ở Maharaxtơra. Ông tốt nghiệp trường cao đẳng về ngôn ngữ và lịch sử, ông tổ chức trường trung học ở Puna, giảng dạy với nội dung yêu nước. Ông sáng lập những tờ báo và tạp chí để tuyên truyền tư tưởng chống Anh. Những người thuộc phái cấp tiến phản đối đường lối ôn hòa của giới lãnh đạo đảng Quốc đại. Theo họ, nhiệm vụ chủ yếu là lật đổ ách thống trị thực dân và phải lôi kéo được đông đảo quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh. Trong cương lĩnh, họ tỏ ra là những người đại biểu tích cực của chủ nghĩa quốc gia trong giai cấp tư sản Ấn Độ.
2.3. Nhận xét về phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ nửa sau thế kỉ XIX
Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Ấn Độ thời kì này cũng sôi nổi, mạnh mẽ không kém thời kì trước đó. Đặc biệt trong giai đoạn này đã có sự xuất hiện bước đầu phong trào đấu tranh của công nhân và giai cấp tư sản Ấn Độ. Nó cho thấy rằng giai cấp vô sản Ấn Độ đã bắt đầu bước lên vũ đài chính trị và nếu được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ thì đây ắt hẳn là một lực lượng tiến bộ và cách mạng nhất trong phong trào giải phóng dân tộc. Còn giai cấp tư sản Ấn Độ đã thể hiện rõ sự phân hóa, ngoài bọn mại bản đã phụ thuộc và đứng hoàn toàn về phía thực dân Anh để kiếm lợi và đàn áp phong trào công nhân thì giai cấp tư sản dân tộc có một vai trò vô cùng to lớn nhằm nêu cao tinh thần dân tộc Ấn Độ.

3. CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ CỦA THỰC DÂN ANH VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH Ở ẤN ĐỘ ĐẦU THẾ KỈ XX
3.1. Chính sách thống trị
Đến thế kỉ XX, chủ nghĩa thực dân Anh tăng cường bóc lột Ấn Độ để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong nước. Vốn đầu tư vào Ấn Độ tăng lên nhanh cóng trong các ngành đường sắt, thủy lợi, đồn điền, khai mỏ, dệt, và công nghiệp thực phẩm.
Tư bản Anh chiếm độc quyền kinh doanh đồn điền ở Bengan, Atxam, và miền Nam, đồn điền cà phê ở Maixo, đồn điền cao su ở To7ravanco, toàn bộ công nghiệp chế biến ở Cancutta, phần lớn xưởng cơ khí và dệt ở Bombay, hầu hết ngành đường sắt và khai mỏ ở trong nước. Hơn 90% ngoại thương nằm trong 5 công ty lớn của Anh. Năm 1905, 165 công ty tư bản có đăng kí ở Anh hoạt động ở Ấn Độ, số vốn của các công ty đó vượt gấp 3 lần số vốn của các công ty (của người Anh và người Ấn Độ) đăng kí ở Ấn Độ. Đồng thời, lương thực và nguyên liệu công nghiệp ở Ấn Độ xuất khẩu không ngừng tăng lên. Nếu lấy mức xuất khẩu năm 1892-1897 là 100 thì trong khoảng 1901-1905, lúa mạch là 276, bông là 143, đay là 127. Món tiền của Ấn Độ vay Anh tăng từ 133 triệu lên 177 triệu livrơ trong khoảng thời gian từ 1900-1913.
Do hậu quả của sự bóc lột nặng nề, thu nhập của người dân Ấn Độ giảm xuống một nửa, từ 1.5 pen-xơ xuống 0.75 pen-xơ mỗi ngày. Cùng với việc thực dân Anh tăng cường kiểm soát kinh tế ở Ấn Độ, bọn địa chủ phong kiến cũng ra sức bóc lột nông dân. Địa tô ngày một tăng, đông đảo nông dân bị mất ruộng đất bị trói chặt vào vòng vây của địa chủ và chủ nợ. Nạn đói và bệnh dịch hoành hành. Trong 10 năm từ 1896 đến 1906 có hơn 10 triệu người chết đói và nạn dịch năm 1904 làm chết 1 triệu người.
Tình hình đó làm cho lòng bất mãn trong nhân dân sôi sục. Trong những năm đầu thế kỉ XX, làn sóng khởi nghĩa của nông dân và của các bộ lan tràn khắp miền Trung và miền Tây Bắc. Những người phái Tilắc hoạt động ráo riết khắp thành phố.
Phó vương Anh Kécdôn (1899-1905) tiến hành một đợt khủng bố dũ dội vào phong trào yêu nước, hạn chế việc học của người Ấn Độ ở các trường đại học vì chúng cho rằng sinh viên là những người gây ra phiến loạn. Chính sách thâm độc của Kécdôn là định tiến hành chia cắt Bengan thành hai tỉnh miền Đông và miền Tây. Bengan vốn là một vùng kinh tế phát triển và trở thành một trung tâm của phong trào đấu tranh hồi đó. Việc chia cắt Bengan thành miền Tây và miền Đông dựa trên cơ sở khác biệt tôn giáo nhằm khơi sâu sự chia rẽ dân tộc. Phần lớn nhân dân ở miền Đông theo đạo Hồi, chỉ có địa chủ và bọn cho vay nặng lãi thì theo đạo Ấn. Trong khi đó đạo Ấn chiếm ưu thế ở miền Tây. Thực dân Anh xúi bẩy cả hai bên, gây nên sự đối lập để dễ bề cai trị. Việc chia cắt Bengan còn nhằm mục đích kinh tế: thực hiện ở tỉnh mới chế độ Daminđa tạm thời có lợi cho bọn Anh nhiều hơn chế độ Daminđa vĩnh viễn. Tư bản Anh tăng cường bỏ vốn xây dựng cảng Sittahông để lấn át cảng Cancutta là nơi tư sản Ấn Độ có ảnh hưởng lớn.
3.2. Phong trào đấu tranh
* Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ năm 1905.
Tháng 7-1905, nhà cầm quyền Anh công bố quyết định chia cắt Bengan. Đây là một hành động đã đụng tới sự tự ái của nhân dân vùng Bengan và điều tất yếu xảy ra là nhân dân sẽ vùng lên đấu tranh.
Tham gia cuộc đấu tranh chống chia cắt Bengan có tư sản dân tộc và cả tầng lớp Daminđa vì họ lo sợ phải đóng thêm tiền thuế ruộng đất. Nhưng lực lượng đông đảo và kiên quyết là quần chúng nhân dân. Tháng 8, nhiều cuộc mittinh, biểu tình diễn ra ở Cancutta và các thành phố lớn. Nhiều nghị quyết tẩy chay hàng Anh được thông qua. Ngày 16-10-1905 đạo luật chia cắt Bengan bắt đầu có hiệu lực và được coi là ngày quốc tang. Ở vùng Bengan các gia đình đều không nhóm bếp, mọi người ăn chay, cửa hiệu và chợ búa đóng cửa. Hảng vạn người vừa hát bài ‘Kính chào Người”, “Mẹ hiền-Tổ quốc” vừa tiến ra bờ sông Găng làm lễ tuyên thệ đấu tranh vì Tổ quốc. Viên chức ở các cơ quan của Anh đến công sở bằng chân đất, tay xách giày để tỏ thái độ phản kháng thực dân Anh. Mọi người dân Bengan đều đeo một băng đỏ ở tay tượng trưng cho sự thống nhất dân tộc.
Cuộc đấu tranh mang tính chất quần chúng diễn ra dưới khẩu hiệu “Xvađêsi” (Xva: của mình, đêsi: đất). Mục đích chủ yếu ban đầu của phong trào này là phát triển nền sản xuất dân tộc, tẩy chay hàng nước ngoài. Những người khởi xướng kêu gọi thu thập phương tiện để phát triển nền sản xuất trong nước, triển lãm hàng nội hóa, thàng lập các hợp tác xã “Xvađêsi”, ngăn lối vào các cửa hàng Anh.
Nhưng phong trào không thu hẹp trong phạm vi đó. Với sự tham gia đông đảo của quần chúng, các hoạt động tiến hành dưới hình thức các câu lạc bộ thể thao, hiệp hội, mittinh, bãi công... Ý nghĩa của khẩu hiệu “Xvađêsi’ được mở rộng. Sau đó, ‘Xvađêsi” được bổ sung thêm khẩu hiệu ‘Xvaratji’ có nghĩa là nền tự trị của mình. Trong các cuộc đấu tranh của quần chúng hô vang khẩu hiệu “Ấn Độ của người Ấn Độ”. Phong trào lan sang Penjap, Bombay và nhiều nơi khác trong nước. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Ấn Độ thể hiện tính chất dân tộc và quần chúng, thu hút đông đảo công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc.
Tiếng vang của phong trào “Xvađêsi” tác động mạnh mẽ đến đảng Quốc đại. Chiếm ưu thế trong ban lãnh đạo đảng là phái ôn hòa, thể hiện quyền lợi của tư sản tự do và một bộ phận địa chủ. Họ tìm cách duy trì phong trào trong phạm vi hòa bình, hợp pháp và cải cách. Theo họ, “Xvaratji’ chỉ có nghĩa là yêu sách về một nền tự trị rất hạn chế trong khuôn khổ của Anh, “Xvađêsi” chỉ nhằm đòi bảo hộ chính sách thuế quan, đòi nhà nước giúp đỡ cho nền công nghiệp Ấn Độ.
Nhưng phái cấp tiến và quần chúng nhân dân coi những khẩu hiệu đó như những lời kêu gọi đấu tranh cho nền độc lập dân tộc Ấn Độ. Họ chủ trương xây dựng một nước Ấn Độ độc lập và dân chủ, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang chủ trương mở rộng đấu tranh tẩy chay hàng Anh và tổ chức cuộc vận động quần chúng chống bọn cầm quyền.
* Phong trào “Xvađêsi” tiếp tục phát triển và sự phân liệt trong đảng Quốc đại.
Phong trào “Xvađêsi” ngày càng được đông đảo quần chúng tham gia và không ngừng lớn mạnh. Năm 1906, nhiều tờ báo tiến bộ được xuất bản, các hội yêu nước ra đời ở Bengan và lan sang các tỉnh. Thành viên của các hội đó chủ yếu là người quốc gia tiểu tư sản, được gọi là những người “Tình nguyện dân tộc”, đi tuyên truyền khẩu hiệu “Xvađêsi” ở thành thị và nông thôn. Nhiều cuộc mittinh, biểu tình được đông đảo công nhân và nông dân dân tham gia. Từ cuối năm 1905 nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân đường sắt, ngành dệt và các ngành khác. Ngoài những yêu sách kinh tế, những người bãi công còn đưa ra khẩu hiệu chính trị chống chính quyền thực dân và thành lập các nghiệp đoàn công nhân. Một bộ phận công nhân công ty Đông Ấn bãi công vào tháng 7 – 1906 được sự hưởng ứng mạnh mẽ trong cả nước. Mùa xuân năm 1907 ở Đông Bengan nổ ra cuộc đấu tranh chống bọn Daminđa và bọn cho vay nặng lãi.
Từ đầu năm 1907, Penjap trở thành trung tâm của phong trào cách mạng. Thực dân Anh tuyên bố tăng thuế ruộng đất và thuế nước, dự định tước đoạt quyền sở hữu ruộng đất của người Ấn Độ ở những nơi xây dựng công trình thủy lợi mới. Điều đó gây nên làn sóng bất mãn trong quần chúng nông dân. Ở các thành phố nổ ra nhiều cuộc mittinh với sự tham gia đông đảo của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và một bộ phận binh lính. Nhân vụ xử án những người yêu nước ở tỉnh Ravapinđi, công nhân đường sắt tuyên bố bãi công để phản kháng. Ngày 1-5-1907, hàng ngàn công nhân và nông dân biểu tình bao vây tòa án, tần công vào các công sở. Các thành phố lớn ở Penjap đều hưởng ứng, bọn thực dân khủng bố để dập tắt phong trào.
Phong trào cũng phát triển mạnh ở Bengan với sự ra đời của các hội bí mật lãnh đạo cuộc đấu tranh đập phá hàng Anh. Nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa những người biểu tình và cảnh sát. Nhiều cuộc bãi công nổ ra ở các thành phố trung tâm công nghiệp.
Tháng 11-1907, một lần nữa công nhân đường sắt công ty Đông Ấn ở Bombay bãi công, cắt đứt đường giao thông từ Cancutta đi các nơi trong 10 ngày liền. Mọi hoạt động kinh tế trong nước bị ngừng trệ.
Những sự kiện đó chứng tỏ phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ đang chuyển các cuộc vận động từ việc tẩy chay hàng nước ngoài sang các cuộc biểu tình và bãi công mang tính chất chính trị trong toàn quốc. Công nhân Ấn Độ đóng một vai trò quan trọng trong phong trào.
Trước tình hình đó, bọn thực dân Anh thi hành các hành động xảo quyệt. Một mặt chúng đàn áp rất khốc liệt các phong trào. Mặt khác, chúng tìm cách lôi kéo các tầng lớp trên, tuyên bố sẽ tiến hành cải cách, đặc biệt là ban hành luật bầu cử hội đồng lập pháp hàng tỉnh. Chúng cho ra đời một tổ chức tôn giáo là “Liên đoàn Hồi giáo”, đồng thời thành lập một tổ chức đối lập là “Liên đoàn vĩ đại của người Ấn Độ giáo” với mưu đồ khơi sâu mối hiềm khích giữa hai giáo phái này.
Trước tình hình đó, phái ôn hòa trong đảng Quốc đại trước đây đã hạn chê khẩu hiệu Xvađêsi trong phạm vi tẩy chay hàng Anh thì nay đòi chấm dứt cuộc đấu tranh chống chính phủ. Trong phiên họp cuối năm 1907, sự phân liệt trong đảng Quốc đại bộc lộ rõ rệt. Phái ôn hòa quyết định khai trừ Tilắc và những người cấp tiến ra khỏi đảng với đa số phiếu. Những người theo Tilắc chủ trương thành lập đảng Dân tộc, nhưng đảng đó bị đặt ngoài vòng pháp luật. Hoạt động của những người phái cấp tiến gặp nhiều khó khăn do sự đàn áp của chính quyền thuộc địa, do thiếu một tổ chức có tính chất trong toàn quốc và sự bất hòa nội bộ. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh vẫn còn tiếp diễn mạnh mẽ.
* Phong trào đấu tranh nửa đầu năm 1908 và cuộc tổng bãi công của công nhân Bombay.
Đến đầu năm 1908, phong trào đấu tranh tiếp tục lên cao, đặc biệt là những cuộc bãi công của công nhân đường sắt và công nhân dệt ở Bombay. Những cuộc đấu tranh lớn diễn ra ở miền Nam Ấn Độ. Trong phong trào Xvađêsi, công ty đường thủy Ấn Độ được thành lập. Nó gặp sự cạnh tranh quyết liệt của bọn chủ tàu Anh. Cuộc cạnh tranh này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn mang ý nghĩa về chính trị. Đứng đầu công ty đường thủy là Pinlai, một thủ lĩnh của phái cấp tiến. Đông đảo quần chúng hưởng ứng lời kêu gọi của Pinlai, đấu tranh chống Anh và công nhân xưởng máy của Anh ở Tuticôrin bãi công.
Tháng 3-1908, khi thực dân Anh bắt Pinlai và những người yêu nước khác, các cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tuticôrin và thành phố bên cạnh là Tinevanki. Những người biểu tình đập phá trại cảnh sát và các công sở, dùng đá và gậy đánh lui bọn đàn áp, nhiều cuộc xung đột đẫm máu xảy ra trên các đường phố.
Tháng 6-1908, bọn thực dân bắt Tilắc và đưa ra xử án. Tilắc đã hào hùng và dũng cảm dùng tòa án làm diễn đàn lên án chủ nghĩa thực dân Anh. Ông bị kết án 6 năm tù khổ sai.
Tin tức về vụ Tilắc lại làm bùng lên một cuộc đấu tranh mới trong cả nước. Những cuộc mittinh và biểu tình diễn ra ở khắp các thành phố. Công nhân Bombay đứng ở hàng đầu. Hưởng ứng lời kêu gọi của phái cấp tiến, nhiều cuộc bãi công chính trị bùng nổ.
Ngày 13-7, số người bãi công có đến vài nghìn. Đến 14-7 có 4 vạn, 17-7 có đến 6 vạn. Đến ngày tuyên án 22-7, công nhân Bombay truyền đi lời kêu gọi: “Hãy trả lời mỗi năm tù của Tilắc bằng một ngày tổng bãi công”. Ngày 23-7, cuộc bãi công của công nhân Bombay trở thành tổng bãi công với 10 vạn người tham gia. Các chiến lũy được dựng lên trên đường phố. Công nhân dùng gậy và đá đánh lui nhiều đợt trấn áp của quân đội và cảnh binh. Mặc dù bị khủng bố dữ dội, cuộc tổng bãi công kéo dài đúng 6 ngày như dự định ban đầu.

Cuộc tổng bãi công ở Bombay là một cuộc đấu tranh chính trị lớn đầu tiên của giai cấp vô sản Ấn Độ. Công nhân đã xuống đườn biểu dương lực lượng và bênh vực những người lãnh tụ của phong trào yêu nước. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ở Ấn Độ đã trưởng thành, có thể tiến hành cuộc đấu tranh chính trị tự giác mang tính chất quần chúng.
Cuộc đấu tranh của công nhân Bombay năm 1908 là đỉnh cao nhất của phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ trong những năm đầu thế kỉ XX.
3.3. Nhận xét về phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ đầu thế kỉ XX
Phong trào cách mạng năm 1905-1908 đã diễn ra sôi nổi và lan rộng trong cả nước Ấn Độ. Dưới khẩu hiệu “Xvađêsi” và “Xvaratji” thấm nhuần tính chất dân tộc, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ đã vùng lên đấu tranh chống ách thống trị thực dân một cách dũng cảm và kiên trì trong mấy năm trời. Tham gia cuộc đấu tranh, ngoài đông đảo nông dân còn có giai cấp tư sản dân tộc mới ra đời và giai cấp công nhân còn non trẻ. Người lãnh đạo phong trào là giai cấp tư sản. Nhưng tình trạng thiếu thống nhất dân tộc, hiềm khích tôn giáo cùng với những cuộc trấn áp dữ dội và chính sách chia rẽ của thực dân Anh làm cho những cuộc nổi dậy diễn ra không đồng đều và cuối cùng bị dập tắt.
Tuy nhiên, phong trào cách mạng năm 1905-1908 đã một lần nữa thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí chống xâm lược của nhân dân Ấn Độ. Nó mang tính chất dân tộc rõ nét và tính chất quần chúng rộng rãi. Đồng thời phong trào đó diễn ra cùng lúc với cao trào đấu tranh chống xâm lược đang lan ra ở các nước châu Á góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức.

KẾT LUẬN
Phong trào đấu tranh chống thực dân Anh từ nửa sau thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX ở Ấn Độ đã có sự tiến bộ cả về mặt lượng và mặt chất. Khác hẳn với thời kì trước đó, các phong trào đấu tranh chỉ ở một số tầng lớp nhân dân nhất định, thì phong trào đấu tranh thời kì này cho thấy rất đông đảo quần chúng nhân dân mọi tầng lớp tham gia. Điều này dễ nhận thấy trong phong trào “Xvađêsi” và “Xvaratji”. Và một điểm phải cần chú ý đó là đã xuất hiện phong trào của giai cấp công nhân và giai cấp tư sản dân tộc. Giai cấp công nhân Ấn Độ ra đời từ sự du nhập chủ nghĩa tư bản Anh vào Ấn Độ, và lực lượng này không ngừng tăng nhanh về số lượng. Hình thức đấu tranh chủ yếu là bằng các cuộc mittinh, biểu tình, bãi công rộng lớn. Có thể nói rằng đây là giai cấp có tinh thần cách mạng nhất trong các phong trào đấu tranh, và nếu được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ thì giai cấp này sẽ đóng vai trò vô cùng to lớn trong phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ. Giai cấp tư sản dân tộc Ấn Độ cũng đã nêu cao tinh thần tự chủ, tinh thần dân tộc với mong muốn phát triển nền kinh tế Ấn Độ, không bị lệ thuộc vào thực dân Anh, nhưng do sự đàn áp của thực dân Anh và còn thiếu tư tưởng đấu tranh và sự tổ chức chặt chẽ nên các phong trào của giai cấp tư sản dân tộc còn nhiều hạn chế.
Các phong trào đấu tranh của tầng lớp nhân dân lao động Ấn Độ tuy mạnh mẽ và rộng khắp, nhưng nó vẫn còn mang nhiều sự hạn chế làm dẫn đến sự thất bại, mà trong đó điểm hạn chế lớn nhất là mâu thuẫn gay gắt về tôn giáo, dân tộc, thiếu sự thống nhất đó là mâu thuẫn của những người theo Hồi giáo giữa những người theo Ấn Độ giáo. Chính điều này đã làm cho thực dân Anh nhận thấy và chúng lợi dụng để ngày càng khơi sâu thêm sự hiềm khích này khiến cho phong trào đấu tranh của nhân dân bị chia rẽ và tất yếu dẫn tới thất bại.
Tóm lại, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa sau thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã nêu cao tinh thần yêu nước và ý chí chống ngoại xâm của nhân dân Ấn Độ, các cuộc đấu tranh thật sự mang tính chất quần chúng rộng rãi và góp phần thức tỉnh các dân tộc châu Á khác đang bị áp bức.
Chữ ký của nguyenkien19489




 

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA NHÂN DÂN ẤN ĐỘ NỬA SAU THẾ KỈ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỈ XX

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: LỊCH SỬ THẾ GIỚI :: Lịch sử thế giới hiện đại-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất