CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


CLB Sử Học Trẻ Việt Nam
 
Latest imagesTrang ChínhĐăng kýĐăng Nhập
DIỄN ĐÀN SỬ HỌC TRẺ - Điểm hẹn của những người đam mê Sử học từ khắp mọi miền Tổ quốc.
Most Viewed Topics
Chữ viết ở Đông Nam Á
Nguyễn Ái Quốc những hoạt động chủ yếu từ 1919-1930 và vai trò đối với CMVN
Tại sao giai cấp nông dân không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng?
Nguyên nhân chính của cao trào 30-31 là nguyên nhân nào ??
Điều lệ của Câu lạc bộ Sử học Trẻ; Nội quy của Forum Suhoctre
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI NGÔ - ĐINH - TIỀN LÊ
Tư sản dân quyền
Đặc điểm con người nhà văn Nam Cao
phong trào cách mạng 1936-1939 có mang tính dân tộc hay không?
Đặc điểm của cuộc cách mạng tư sản Anh thế kỉ XVII:

Share | 

 

 vài nét văn hoá Nga

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
vài nét văn hoá Nga I_icon_minitimeTue Aug 03, 2010 4:10 pm

nguyetminh252
nghe nhac trữ tình và học sử

ĐIỀU HÀNH VIÊN

nguyetminh252

ĐIỀU HÀNH VIÊN

Họ & tên Họ & tên : Đỗ Thị Minh Nguyệt
Vai trò trong CLB Sử học Trẻ Vai trò trong CLB Sử học Trẻ : Ủy viên Ban Điều hành Diễn đàn - phụ trách quản lý chuyên mục Tri thức Phổ thông và Văn hóa Nghệ thuật.
Ngày tham gia Ngày tham gia : 23/05/2010
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 29
Đến từ Đến từ : trường THPT Chu Văn An
Sở trường/ Sở thích Sở trường/ Sở thích : nghe nhac trữ tình và học sử
Điểm thành tích Điểm thành tích : 86
Được cám ơn Được cám ơn : 13

Bài gửiTiêu đề: vài nét văn hoá Nga

 
1.trang phục Nga
Trang phục của dân tộc Nga có một lịch sử rất phong phú. Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời nước Nga cổ đại đến đầu thế kỷ XVIII, bộ trang phục đã có những thay đổi lớn về hình dáng cơ bản của nó. Thế kỷ XVIII trở thành cái mốc đánh dấu sự khác biệt trong trang phục. Đây là thời kỳ của những cải tổ trong kinh tế - xã hội và văn hóa ở nước Nga. Nó được đánh dấu bởi những thi hành pháp luật của Petr I nhằm điều hòa những môi trường khác nhau trong xã hội và tiến hành những thay đổi cơ bản. Cuộc cải cách đã thay đổi cuộc sống ở nước Nga một cách sâu rộng, trong đó có cả trang phục.
2 xu hướng :Trang phục của các nhà quý tộc theo hướng của phương Tây,

Trang phục của người dân bình thường thì theo truyền thống.

Trang phục truyền thống của người nông dân không chịu ảnh hưởng của luật pháp chính thức, bởi vậy vẫn bảo tồn được cho đến thế kỷ XX. Bộ trang phục vẫn giữ được vẻ cân đối và nét đặc biệt của nó. Theo quan niệm của người nông dân, bộ trang phục cũng thú vị như dân tộc Nga. Nó tập trung những nét đặc trưng nhất trong bộ trang phục cổ của Nga: cách cắt may, cách trang trí cùng phong cách thêu. Bộ trang phục truyền thống đặc trưng bởi đường cắt thẳng tự nhiên, độ dài của trang phục, ống tay lớn và rộng, có nhiều lớp với sự kết hợp màu sắc tương phản của các phần trong trang phục, sự đa dạng về họa tiết và trang trí.
Trang phục của phụ nữ

Trang phục của người nông dân theo những nguyên tắc chung về đường cắt, họa tiết nhưng không giống nhau về hình dáng. Nó khác bởi sự đa dạng trong cả bộ trang phục ở từng vùng địa lý và lịch sử - văn hóa cụ thể. Đặc biệt là đối với bộ trang phục của phụ nữ. Các nhà dân tộc học đã chia ra làm 4 loại cơ bản trang phục trên lãnh thổ nước Nga:

với váy poneva,
với váy sarafan,
với váy andarak,
với váy kubelek.
Hai bộ đầu tiên thường đươc mặc trên phần lớn vùng châu Âu và châu Á của nước Nga.

Bộ trang phục với váy poneva bao gồm có áo cánh, thắt lưng, chiếc váy poneva, yếm đằng trước, khăn đội đầu dạng con chim ác là, trang sức bằng lông chim và hạt cườm, giày được bện từ vỏ cây hoặc bằng da. Đây là trang phục có ở các tỉnh phía Nam phần châu Âu: Voronezh, Kaluzh, Kursk, Ryazan, Tambov, Tul, Orlov, một phần của Smolen.

Bộ trang phục với váy sarafan gồm có áo cánh, váy sarafan, khăn bịt đầu kiểu kokoshnik, mũ dushegrei, giày chủ yếu là bằng da. Chúng có ở phần châu Âu của nước Nga – các tỉnh Povolzhe, trên dãy Ural, tại Sibir, trên dãy Altai. Nó còn xuất hiện trong trang phục ở Arkhalgelsk, Vologod, Novgorod, Olonets.

Trang phục với váy kubilek đặc trưng cho các trang phục của người Kazak và một phần ở Bắc Kavkaz. Nó là chiếc váy may thắt ở eo, mặc phía trên là áo với ống tay rộng. Váy mặc cùng với quần dài và chít khăn trên đầu.

Bộ trang phục váy andarak gồm áo cánh, váy, áo nâng ngực, tấm thắt lưng lớn, khăn bịt đầu kiểu kokoshnik. Chúng có mặt tại Ryazan, Orlov, Kursk, Tambov.

Trang phục cho nam giới

Trang phục cho đàn ông Slavơ nói chung đều giống nhau. Nó bao gồm có áo dài thắt ngang lưng, quần không quá rộng, giày da hoặc bện bằng vỏ cây, mũ có hoặc không có vành. Như một nguyên tắc, áo buông đến cạp quần thì thắt lại.

Tuy nhiên nó có những đặc trưng riêng của từng vùng. Ví dụ, tại các làng ở ven bờ Bạch hải, đàn ông mặc áo dệt từ lông thú. Áo được nhét vào trong quần như một số dân tộc tại các vùng khác phía Bắc nước Nga. Tại một số làng ở miền Nam, trang phục của nam giới còn có cả áo gilet. Tại vùng Altai, đàn ông thích trang trí chiếc mũ của mình bằng những dải ruy băng hay những bông hoa giả. Ở những tỉnh thuộc trung tâm phần châu Âu của Nga, người ta cũng trang trí cho chiếc mũ bằng lông của các loại len mềm hay những chiếc vòng.

Trang phục của nam giới và phụ nữ được làm từ lanh, vải gai, lông thú, vải pha len của nhà làm, cũng như các sản phẩm của nhà máy như lụa, lông thú, vải sợi bông, gấm. Trang phục truyền thống có những chức năng nhất định. Nó được chia ra làm trang phục lễ hội, nghi lễ, thường ngày và để làm việc. Trang phục lễ hội được may bằng những loại vải đắt tiền. Tất cả những phụ kiện của trang phục, chiếc khăn bịt đầu, giày được trang trí công phu. Trang phục thường ngày thường đơn giản, trang trí sơ sài và được may từ những loại vải rẻ tiền. Trang phục nghi lễ dành để may trong thời gian diễn ra nghi lễ.

Bên cạnh việc giữ gìn hình dáng truyền thống, bộ trang phục dân gian đã không ngừng biến đổi. Sự phát triển của công nghiệp và thời trang thành thị ảnh hưởng mạnh tới lối sống xưa ở nông thôn và đời sống của nông dân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Ngày nay, những đường cắt, những họa tiết của bộ trang phục truyền thống là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn cho những tìm tòi mẫu thiết kế mới. Nó là dành cho những người đam mê đích thực những sáng tạo dân gian.

2. bát đĩa Nga

Những bát đĩa bằng gỗ của người Nga từ xa xưa đã được sử dụng rộng rãi. Màu vàng lấp lánh, ngọn lửa của màu đỏ son, chiều sâu bí ẩn của phông nền màu đen – đó là Khokhloma. Các sản phẩm của Khokhloma luôn phải đáp ứng một khối lượng nhu cầu lớn.
Đặc biệt việc sản xuất loại bộ đồ này phát triển với quy mô rộng vào thế kỷ XIX: các sản phẩm của Khokhloma qua hội chợ Nizhegorod đã đi khắp nước Nga, chúng còn được đưa tới các nước ở châu Á và Tây Âu. Mọi người bị chúng thu hút bởi cách sơn màu độc đáo, nước sơn đẹp, những hình họa sặc sỡ của ngày hội và vẻ đẹp của họa tiết. Đồng thời sản phẩm có giá rẻ và dùng được lâu: những món ăn nóng không làm thay đổi màu sắc, không mất đi những họa tiết.

Kỹ thuật sơn của làng Khokhloma liên quan tới việc xử lý nóng các sản phẩm và đòi hỏi nhiều kinh nghiệm cũng như nghệ thuật. Công việc này tốn rất nhiều công sức. Các loại đồ vật khác nhau được trang trí họa tiết đặc trưng của Khokhloma. Những tách trà, bình đựng muối, những chiếc đĩa lòng sâu trắng – được gọi là “belio” – ban đầu được sấy khô, sau đó được phủ một lớp đất sét lỏng để che lấp các kẽ hở của gỗ. Việc này được thực hiện nhằm làm gỗ không thấm sơn sẽ được phủ lên sau đó

Những đồ vật sau khi sấy khô được phủ một lớp sơn lanh và nung trong lò suốt đêm. Sau đó chúng được quét một lớp dầu gai thật kỹ, một lần nữa lại được phơi khô. Quá trình này lặp đi lặp lại 3 – 4 lần. Sau khi đã quét dầu gai kỹ, những sản phẩm này sẽ được tráng một lớp thiếc. Một lớp thiếc mỏng được phủ lên bề mặt của đồ vật, nhờ thế những sản phẩm bằng gỗ sáng bóng lên như bạc.

Chỉ sau khi đã trải qua những công đoạn chuẩn bị như vậy thì đồ vật mới được trang trí: người ta vẽ trên bề những họa tiết bằng sơn đen và đỏ nhờ một chiếc bút nhỏ. Đồ vật đã được trang trí, một lần nữa được phủ thiếc và nung trong lò. Dưới tác dụng của nhiệt độ, sơn trở nên tối màu hơn, có màu nâu hơi vàng, nhờ đó, lớp thiếc dưới sơn có ánh vàng.

Trong những họa tiết của Khokhloma hầu như không có thể loại tả cảnh; nghệ thuật của những người họa sĩ hướng vào việc miêu tả hình dáng thực vật hay người ta gọi là “những họa tiết cây cỏ”. Những hoa văn họa tiết này có liên quan tới hội họa truyền thống của nước Nga cổ. Những thân cỏ mềm mại chạy khắp mặt vật dụng tạo nên một vẻ ngoài đặc biệt lộng lẫy cho đồ vật.

Nhưng những họa tiết hoa cỏ thì xuất phát từ đâu? Nguồn gốc những trang trí của Khokhloma với cách kết hợp màu đặc biệt chịu ảnh hưởng của nghệ thuật trang trí thế kỷ XV – XVI: màu đỏ tươi, màu đen và màu vàng; những cành cây với chùm quả dại. Vào thế kỷ XV – XVI có thể bắt gặp những sự kết hợp màu sắc tương tự trong những bức tranh và tượng thánh, trong họa tiết bìa những cuốn sách. Những họa tiết này cũng có thể bắt gặp trong các đồ dùng, bát đĩa và cả nơi ở. Ví dụ như những cây cỏ, hoa và lá vàng được vẽ trên tường đỏ Prestolnaya trong cung điện Teremnyi của điện Kremlin (1635 – 1636). Tại Bảo tàng các nghề thủ công truyền thống ở Semenov cũng lưu giữ bức tranh thánh cuối thế kỷ XVII – trong đó hoa văn cây cỏ mạ thiếc. Họa tiết này người ta thấy xuất hiện trong tất cả những loại hoa văn trang trí của làng Khokhloma.

3. đôi giày truyền thống cùa Nga
Lịch sử của ủng dạ bắt đầu cách đây vài nghìn năm. Từ thế kỷ IV (trước Công nguyên), tổ tiên người châu Á ở Nga đã dùng ủng dạ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những hiện vật tại vùng Altai. Ở nước Nga cổ, chỉ những người nông dân khá giả mới đi ủng dạ vì nó khá đắt. Những gia đình có chúng trong nhà được coi là những gia đình giàu có. Chúng được giữ gìn và truyền cho thế hệ sau. Có được món quà là đôi ủng dạ được coi là một điềm may mắn. Những người thợ thủ công làm ủng dạ không nhiều, còn kỹ thuật sản xuất được giữ bí mật, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chàng trai có đôi ủng dạ được coi là một chú rể đáng mơ ước đối với các cô gái.

Cả những người trong hoàng gia cũng không hề coi thường những đôi ủng dạ. Petr I đã coi nó như một biện pháp trong chữa bệnh nôn nao khó chịu. Vào mùa đông sau khi tắm ở những lỗ đục trên mặt băng, ông yêu cầu những chiếc khăn và đôi ủng dạ ấm. Chính vào thời gian này việc cai quản sản xuất ủng dạ tại Nga được phổ biến rộng rãi. Ekaterina Velikaya đã đi đôi ủng dạ dưới chiếc váy xòe khi chân bà bị đau. Người ta đã tạo ra cho bà một loại lanh mềm đặc biệt từ len dày màu đen. Còn nữ hoàng Nga Anna Ioanovna đã cho phép các quý bà đi ủng dạ với những bộ lễ phục.

Ủng dạ đóng vai trò rất quan trọng trong thời kỳ chiến tranh. Mùa đông, các chiến sĩ chỉ có thể đi ủng dạ. Quân Nga đã chiến thắng quân của Napoleon và Hitler nhờ một số lượng lớn những đôi giày ấm áp này.

Nhiều nhà chính trị trong thời kỳ hiện đại rất tôn trọng nghề thủ công này. Stalin đã được cứu sống nhờ đôi ủng dạ trong cuộc đi đày ở Sibiri, Nikita Khrushchev cũng đã trải qua thời thơ ấu với đôi ủng dạ. Những người sản xuất ủng dạ thường nhận được các đơn đặt hàng cá nhân của những vị lãnh đạo cấp cao. Và tên tuổi của những người đặt hàng được giữ bí mật.

Không có ủng dạ không thể chinh phục được những vùng phía bắc, những chuyến thám hiểm ở cực Bắc và cực Nam. Hiện nay đã xuất hiện trong lịch sử những hiện vật là những đôi ủng dạ của các vận động viên tham gia vào Thế vận hội mùa đông ở Salt lake City, những đôi ủng dạ trắng của thợ hồ vải vùng Syzran làm quà tặng Stalin sinh nhật lần thứ 70 hay đôi ủng dạ của Georgy Zhukov trong thời gian Chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Những đôi ủng dạ tốt nhất là những đôi giày được người thợ thủ công ở làng quê làm. Nghề thủ công này tại các làng ở Sibiri và miền Trung nước Nga hiện nay đang được khôi phục. Trước đây tất cả các vùng đều làm ủng dạ. Công việc này có lãi mặc dù độc hại và rất vất vả. Cùng với thời gian các xưởng thủ công sản xuất ngày càng phát triển. Hiện nay ở Nga có một vài nhà máy sản xuất ủng dạ. Trong đó nhà máy Gorizont đã có lịch sử từ năm 1854. Chính nhà máy này vào năm 2001 đã nghĩ ra một trong những bảo tàng độc đáo nhất – Bảo tàng ủng dạ Nga (Matxcơva).

Trong vòng 300 năm trở lại đây, nghề thủ công này đã có những thay đổi lớn. Sản xuất ủng dạ ngày nay cũng như trước kia là một quá trình rất phức tạp. Để sản xuất ra một đôi ủng dạ không phải cỡ lớn nhất đã cần gần 1kg lông, có nghĩa là phải cắt lông 1 con cừu lớn. Như vậy, khi chúng ta đi một đôi ủng dạ, chúng ta đã mang ở chân lông 2 chú cừu non.

Ủng dạ bắt đầu được làm bằng lông. Nó được phân loại, giặt và phơi khô. Một chiếc máy sẽ nghiền nhỏ và biến nó thành bông. Loại lông tốt là loại có thể bay chỉ với làn gió nhẹ thổi qua.

Lông được trải ra và kéo thành sợi. Từ đó người ta làm ra những đôi ủng dạ. Nhưng để bông trở thành tấm vải may ủng dạ, sợi lông phải trải qua một quá trình, đó là một chiếc máy nén sẽ đập kỹ chỗ lông thành tấm dạ. Công đoạn tiếp theo, bằng một cái khuôn chuyên dụng người ta cắt những chiếc ủng dạ theo những kích cỡ cần thiết. Cần phải đặc biệt chú ý tới việc nối với đế giày. Đế giày không chỉ được làm bằng một lớp nỉ mà còn được lót một lớp lông dày.

Người ta sẽ bọc những phần đã làm vào một tấm vải ẩm và lăn nó thật kỹ: lông sẽ được nén chặt xuống. Công việc này rất vất vả, đòi hỏi nhiều sức lực vì tất cả đều được làm bằng tay. Việc lăn được thực hiện dọc theo chiếc ủng, khi đó sẽ tạo nên độ rộng của chiếc ủng. Và chiếc ủng dạ đã được ra đời.

Hình dáng thông thường của chiếc ủng chỉ có được nhờ việc lăn nó: 40 – 50 chiếc ủng mới sẽ được bọc trong một tấm vải không thấm nước và đưa qua một chiếc máy cán. Nó được làm như vậy 3 lần. Chiếc ủng sẽ không còn một vết nối nào. Sau công đoạn này, chiếc ủng dạ đã được làm xong, nhưng chỉ có cỡ lớn – cao 1m và dài 0,5m. Sau hai lần giặt (trong nước lạnh, sau đó là nước nóng) và một chiếc giày chuẩn cỡ 42 đã hoàn thành.

Tổ hợp máy làm từ gỗ cây tùng (loại gỗ khác sẽ không giữ được nhiệt và tốc độ) giống như người máy, sẽ giặt thành phẩm 3 lần. Sau đó khi nó đã khô, một lần nữa chiếc ủng được lăn và đập lại lần nữa. Chiếc giày được để trong hơi nóng để nó mềm ra và có thể trang trí màu sắc cần thiết. Máy Krokodil tạo cho chiếc ủng dáng và kích cỡ cần thiết: bằng chiếc khuôn gỗ, giày được kéo căng theo chiều ngang. Để chiếc ủng vào khuôn, nắn hình bằng chiếc búa để vuốt phằng chiếc ủng. Như một viên kim cương chiếc ủng được gọt rũa lần cuối.


Công đoạn cuối cùng là phơi khô. Đặt ủng vào một cái lò chuyên dụng từ 12 – 14 tiếng. Để biết được chiếc ủng đã khô hay chưa không khó: khuôn sẽ bỏ ra được dễ dàng nếu ủng đã đạt yêu cầu. Tất cả công đoạn này mất ba ngày rưỡi.

Ủng dạ là loại giày duy nhất được làm từ những chất liệu tự nhiên mà không gây hại tới môi trường.

4.lịch sử cây đàn Balalaica
Đàn balalaika xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Có khá nhiều tài liệu và những chứng cứ về sự xuất hiện của cây đàn. Nhiều người cho rằng, đàn balalaika được nghĩ ra ở nước Nga cổ, những người khác lại cho rằng nó xuất phát từ một nhạc cụ của người kirgiz – kaisak – dombra. Còn có một giả thuyết nữa: có khả năng đàn balalaika được nghĩ ra trong thời gian quân Tatar chiếm đóng, hoặc ở một mức độ nhất định, đó là sự giao thoa với nền văn hóa của người Tatar. Do vậy khó có thể xác định chính xác năm cây đàn xuất hiện. Những nhà sử học và những nghiên cứu âm nhạc vẫn đang tranh luận về vấn đề này. Phần lớn nghiêng về năm 1715, nhưng còn có một con số sớm hơn được nhắc tới – 1688.

Có lẽ, đàn balalaika được những người nông dân nghĩ ra để làm phong phú cho cuộc sống bị áp bức của mình. Dần dần đàn balalaika được phổ biến trong những người nông dân và những anh hề. Những anh hề biểu diễn tại các hội chợ, mua vui cho người dân, kiếm tiền nuôi sống mình và không hề biết họ đang chơi loại nhạc cụ thần kỳ như thế nào. Việc mua vui không kéo dài được lâu, vua Aleksei Mikhail của toàn Nga đã ra lệnh tịch thu tất cả các loại nhạc cụ (đàn domra, đàn balalaika, tù và, đàn gusli và các nhạc cụ khác) và đem đốt. Còn những người không chịu nộp chiếc đàn thì bị bắt và đi đày ở Tiểu Nga.

Nhưng thời gian trôi qua, nhà vua chết và lệnh cấm dần bị dỡ bỏ. Đàn balalaika một lần nữa lại xuất hiện trên khắp đất nước nhưng không tồn tại được lâu. Thời gian làm thay đổi những trò tiêu khiển.

Đến giữa thế kỷ XIX, một số nông dân vẫn chơi loại nhạc cụ ba dây này. Trong một lần đi dạo ở điền trang, nhà quý tộc trẻ Vasily Vasilevich Andreev đã nghe thấy tiếng đàn balalaika. Tiếng đàn đặc biệt đã gây ấn tượng mạnh với ông vì ông tự cho mình là người biết nhiều loại nhạc cụ của Nga. Vasily Vasilevich quyết định hoàn thiện chiếc đàn balalaika.

Để bắt đầu, ông đã dần dần học cách chơi đàn. Sau đó, ông nhận thấy cây đàn mang trong mình những khả năng rất lớn, ông đã nghĩ đến chuyện hoàn thiện tiếng đàn. Andreev đến Peterburg gặp người thợ làm đàn Ivanov, nhưng Ivanov đã từ chối làm việc này. Andreev suy nghĩ, với tay lấy cây đàn cũ ông đã mua ở hội chợ với giá 30 kopek và chơi một bài dân ca của Nga. Ivanov đã không thể từ chối trước sự tấn công mãnh liệt đó và đồng ý thực hiện. Công việc kéo dài và vất vả, nhưng cuối cùng cây đàn balalaika mới đã được hoàn thành.

Cây đàn balalaika gồm 3 phần chính. Phần thứ nhất là thân đàn gồm có mặt đàn (phần trước) và phần sau, được tạo nên bằng cách dán 6 – 7 mảnh gỗ lại với nhau. Phần thứ hai là cần đàn có các phím đàn và cuối cùng là đầu đàn – phần trên cùng của balalaika. Trên phần đầu đàn là các khóa để lên dây. Ở phần mặt đàn thường có một cái lỗ nhỏ, trên lỗ nhỏ đó thường có một màng bảo vệ. Nó có tác dụng bảo vệ mặt đàn khỏi những cú đập trong khi chơi. Ở nhiều đàn balalaika không có cái lỗ nhỏ này, chúng được thay thế bằng một bức tranh nhỏ vẽ hình hoa hay quả dại.

Nhưng Vasily Andreev còn nghĩ tới một điều gì đó lớn hơn là hoàn thiện cây đàn balalaika. Ông muốn trả lại cây đàn cho nhân dân và phổ biến nó. Hiện nay tất cả những người lính khi phục vụ trong quân đội đều được phát cho một cây đàn balalaika và khi rời quân ngũ họ mang theo cây đàn.

Như vậy, cây đàn balalaika một lần nữa được phổ biến rộng rãi tại Nga và trở thành một trong những nhạc cụ phổ biến nhất. Andreev còn nghĩ ra việc thành lập một hệ thống đàn balalaika với các kích cỡ khác nhau theo hình thức tứ tấu đàn dây. Để làm được điều này ông đã tập hợp các nghệ sĩ Paserbsky và Palimov để cùng thực hiện. Dàn nhạc gồm pikkolo (đàn nhỏ nhất), prima (loại đàn thông thường), alto và bass (loại đàn lớn hơn). Chúng chính là thành phần cơ bản của dàn nhạc Velikorussky. Dàn nhạc đã đi biểu diễn ở nhiều nước trên thế giới để tôn vinh đàn balalaika cũng như văn hóa Nga. Ngày nay, ở một số nước khác như Anh, Mỹ, Đức đã thành lập dàn nhạc nhạc cụ dân tộc Nga theo hình mẫu của Velikorussky.

Andreev ban đầu tự chơi trong dàn nhạc, sau đó ông đứng ra chỉ huy. Đồng thời ông đã có những buổi biểu diễn độc tấu – những buổi tối của balalaika. Tất cả những điều này đã thúc đẩy sự phổ biến rộng rãi đàn balalaika tại Nga và thậm chí là ở nước ngoài.

Vasily Vasilevich đã đào tạo được một đội ngũ những người cố gắng phổ biến cây đàn balalaika như Troyanovsky và những người khác. Trong thời kỳ đó, các nhạc sĩ cũng đã chú ý tới cây đàn balalaika. Lần đầu tiên cây đàn xuất hiện trong dàn nhạc giao hưởng.

Ngày nay đàn balalaika mặc dù gặp nhiều thăng trầm nhưng nó vẫn luôn là biểu tượng cho nền văn hóa truyền thống của Nga trong mắt bạn bè thế giới.



Chữ ký của nguyetminh252




 

vài nét văn hoá Nga

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
CLB Sử Học Trẻ Việt Nam :: VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT :: Văn hóa nghệ thuật thế giới-
________________________________________________________________________
Copyright ©2007 - 2009, Forumotion
Suhoctre ©2007- 2009 Phát triển bởi thành viên Diễn đàn
BQT Diễn đàn: Châu Tiến Lộc - Nguyễn Thị Trang - Phạm Ngọc Thạch

Sáng lập viên : Châu Tiến Lộc, Nguyễn Hùng Sơn, Nguyễn Thái Bình
Email : suhoctre@gmail.com - Forum : http://suhoctre.no1.vn
Xem trang web này tốt nhất với độ phân giải 1024x768 (hoặc cao hơn) với Firefox 3.0


Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất